Bản án 984/2019/HS-PT ngày 27/12/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 984/2019/HS-PT NGÀY 27/12/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27/12/2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 858/2019/TLPT-HS ngày 09/12/2019 theo Quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử số 813/2019/QĐXXPT-HS ngày 17/12/2019 đối với bị cáo Nguyễn Đức C do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 224/2019/HS-ST ngày 25/09/2019 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Bị cáo có kháng cáo: NGUYỄN ĐỨC C, sinh năm 1998; ĐKNKTT và trú tại: Số 49, ngõ 11 đường Đ1, phường T, quận Đ, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Sinh viên; trình độ học vấn: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Đức N và bà Nguyễn Thị Phi Y; tiền án, tiền sự: Chưa; bị cáo bị bắt qủa tang ngày 09/5/2019 và bị tạm giữ từ ngày 10/5/2019 đến ngày 13/5/2019; hiên đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 09/5/2019 tại số 19 đường Nguyễn Cơ Thạch, phường Mỹ Đình 2, Công an phường Tây Mỗ, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội đã bắt quả tang Nguyễn Đức C đang bán ma túy cho Đặng Thế H (Sinh năm 1995); thu giư cua Nguyễn Đức C 500.000 đồng và tổng cộng 1,285 gam Cần sa. Nguyễn Đức C khai nhận trước đó tại Lạng Sơn, được một người không quen cho số Cần sa trên để sử dụng; Cường đã rao bán trên mạng xã hội và được Đặng Thế H liên hệ để mua thì bị bắt.

Bản án hình sự sơ thẩm số 224/2019/HS-ST ngày 25/9/2019 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm đã áp dụng khoản 1 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 (Gọi tắt là Bộ luật Hình sự năm 2017), xử phạt Nguyễn Đức C 24 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngoài ra, bản án hình sự sơ thẩm còn quyết định xử lý vật chứng, về án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 26/9/2019, bị cáo Nguyễn Đức C có đơn kháng cáo đề nghị được giảm hình phạt.

Tại phiên tòa: Bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội sau khi đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ các Điều 331; 332; 333; điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, chấp nhận kháng cáo của bị cáo về hình thức và nội dung; cụ thể, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2017, xử phạt Nguyễn Đức C từ 15 đến 18 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án, các Cơ quan và người tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; không ai có ý kiến thắc mắc, khiếu nại gì. Sau khi xét xử sơ thẩm, trong thời hạn luật định bị cáo có kháng cáo là hợp lệ, được chấp nhận.

[2] Về nội dung: Khong 20 giờ 30 phút ngày 09/5/2019, Nguyễn Đức C đa mang theo 1,285 gam ma tuy loai Cần sa đến số 19 đường Nguyễn Cơ Thạch, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm để bán cho Đặng Thế H thì bị bắt quả tang. Hành vi trên của Nguyễn Đức C bị Tòa án cấp sơ thẩm kết án về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2017 là đúng.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Biết rõ việc mua bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép các chất ma túy là Nhà nước nghiêm cấm và xử lý rất nghiêm khắc nhưng vì đam mê mù quáng bị cáo vẫn phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; đã xâm phạm chính sách độc quyền về quản lý các chất ma túy của Nhà nước; xâm phạm và gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an, an toàn xã hội trên địa bàn Thủ đô; là nguyên nhân gây lan truyền tệ nghiện ngập ma túy; suy thoái về kinh tế; hủy hoại về nhân cách, hạnh phúc gia đình và làm phát sinh các tội phạm khác. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là cần thiết.

Tòa án cấp sơ thẩm nhận định bị cáo thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải; về nhân thân, chưa có tiền án, tiền sự và áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 cho bị cáo là đúng nhưng khi quyết định hình phạt lại không áp dụng khoản 2 Điều 51 cho bị cáo là thiếu sót. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo xuất trình tài liệu chứng minh bản thân đang là sinh viên năm cuối Trường Đại học dân lập Phương Đông; có mẹ đẻ là người có nhiều thành tích trong công tác giảng dạy, được các cấp trong ngành Giáo dục và Đào tạo tặng thưởng nhiều danh hiệu thi đua; và xét thấy số lượng ma túy bị cáo mua bán không nhiều; nhất thời phạm tội lần đầu. Đây là các tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 được Hội đồng xét xử xem xét để chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ dưới mức thấp nhất của khung hình phạt theo Điều 54 của Bộ luật Hình sự như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là thỏa đáng.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật.

[4] Về án phí phúc thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án thì bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức C, sửa bản án sơ thẩm, cụ thể:

1.1) Áp dụng khoản 1 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Đức C 18 (Mười tám) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đầu thi hành án, được trừ thời gian đã bị bắt, tạm giữ (Từ ngày 09/5/2019 đến ngày 13/5/2019).

1.2) Bị cáo Nguyễn Đức C không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

134
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 984/2019/HS-PT ngày 27/12/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:984/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về