Bản án 98/2021/HS-ST ngày 31/05/2021 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH LƯU, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 98/2021/HS-ST NGÀY 31/05/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 31 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 88/2021/TLST-HS ngày 14 tháng 5 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 106/2021/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 5 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Thị L (tên gọi khác: Không), sinh ngày 09/02/1974; nơi sinh: Tại huyện Q, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Khối 9, thị trấn C, huyện Q, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 5/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đoàn thể: Không; con ông Nguyễn Văn H (đã chết) và bà Phan Thị Huệ, sinh năm 1950; có chồng Hồ Hữu T, sinh năm 1975; có 02 người con đều sinh năm 1994; tiền án: Không; tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/03/2021 đến ngày 25/3/2021 thì áp dụng biện pháp ngăn chặn: “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến nay, “có mặt”.

2. Phan Đình T (tên gọi khác: Không), sinh ngày 20/8/1981; nơi sinh: Tại huyện Q, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Xóm 2, xã B, huyện Q, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đoàn thể: Không; con ông Phan Hồng Th, sinh năm 1946 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1949; có vợ: Phạm Thị Ng, sinh năm 1983; có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2006, nhỏ nhất sinh năm 2020; tiền án: Không; tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/03/2021 đến ngày 25/3/2021 thì áp dụng biện pháp ngăn chặn: “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến nay, “có mặt”.

3. Lê Văn H (tên gọi khác: Không), sinh ngày 16/9/1981; nơi sinh: Tại huyện Q, tỉnh N; nơi cư trú: Xóm 2, xã B, huyện Q, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đoàn thể: Không; con ông Lê Quang H (đã chết) và bà Trần Thị M, sinh năm 1942; có vợ: Trần Thị H, sinh năm 1983; có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2018; tiền án: Không; tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, “có mặt”.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/. Anh Trương Văn H, sinh năm 1980, “vắng mặt”;

Nơi cư trú: Xóm 2, xã B, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

2/. Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1995, “vắng mặt”;

Nơi cư trú: Xóm 2, xã S, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21 giờ 00 ngày 18/3/2021, Tổ công tác Công an huyện Q bắt quả tang tại quán cafe Phú Anh, thuộc xóm 4, xã B, huyện Q do Trương Gia Ph làm chủ, có một số đối tượng đang đánh bạc bằng trò chơi điện tử “thỏ, khỉ” và “bắn cá”, gồm: Phan Đình Tr, Hồ Đức Ch, Trương Gia Ph, Hoàng Văn T, Phan Văn H, Phạm Văn Th và Phan Văn Đ.

Quá trình làm việc, Phan Đình Tr đã tự thú về hành vi đánh bạc bằng hình thức ghi số lô, đề trước đó với Lê Văn H, sinh năm 1981, trú tại: Xóm 2, xã B, huyện Q và Nguyễn Thị L, sinh năm 1974, trú tại: Khối 9, thị trấn C, huyện Q. Đồng thời, Triều giao nộp 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPone 6 Plus màu vàng, có Imeil 355729076462428, gắn thẻ sim 037.4081585.

Nhận thấy, hành vi phạm tội của mình đã bị phát hiện nên ngày 19/3/2021 và ngày 22/3/2021 Nguyễn Thị L và Lê Văn H đã đến Công an huyện Q đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Q, các bị cáo khai nhận: Vào dịp tết nguyên đán năm 2021, Nguyễn Thị L nói với Phan Đình T là, có ai ghi số lô, đề thì Triều ghi lại và chuyển cho Lý, để được trả tiền hoa hồng, cụ thể: L nhận của T 01 điểm lô 22.000 đồng và lấy 75% trên tổng số tiền lô, đề; còn 25% trả tiền hoa hồng cho T.

nh thức đánh bạc mà các bị cáo sử dụng là, dựa vào kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng vào lúc 18 giờ 30 phút hàng ngày để quy ước với nhau như sau:

- Đánh số đề: Người chơi chọn một số có 02 chữ số bất kỳ và đánh với số tiền tùy ý, sau đó ghi qua điện thoại với Nguyễn Thị L. Khi có kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc thì lấy hai số cuối của giải đặc biệt để so sánh. Nếu người đánh chọn số trùng với hai số cuối thì gọi là trúng số đề và được nhận số tiền gấp 70 lần số tiền đánh ban đầu; nếu không trúng thì mất số tiền đánh ban đầu.

- Đánh số lô: Người đánh chọn một số có 02 chữ số rồi đánh theo điểm, số điểm đánh tùy ý. Quy ước 01 điểm lô được tính số tiền là 22.000 đồng. Nếu trúng 01 điểm lô thì người chơi được nhận số tiền 80.000 đồng; nếu không trúng thì mất số tiền đánh ban đầu. Để tính thắng thua, các đối tượng căn cứ vào kết quả 27 giải của xổ số kiến thiết miền Bắc.

- Đánh lô xiên: Khi đánh số lô xiên thì có xiên 2, xiên 3; nghĩa là người đánh chọn ra hai cặp số bất kỳ, mỗi số có hai chữ số gọi là xiên 2 hoặc ba cặp số bất kỳ gọi là xiên 3, rồi đánh với số tiền tùy ý. Khi có kết quả thì so sánh với tất cả các dãy số của giải thưởng trong kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc. Nếu có hai cặp số lô trùng với hai cặp số cuối trong các giải thưởng thì được gọi là trúng lô xiên 2 và được nhận số tiền thắng gấp 10 lần số tiền đánh ban đầu. Nếu có 03 cặp số trùng thì được gọi là trúng lô xiên 3 và được nhận số tiền thắng gấp 40 lần; nếu không trùng thì người đánh mất số tiền đánh ban đầu.

Với hình thức như trên, vào lúc 18 giờ 00 phút, ngày 18/3/2021, Lê Văn H đã sử dụng số điện thoại 0972.847.380 nhắn tin cho Phan Đình T theo số điện thoại 0374.081.585 và ghi các số lô, đề như sau:

- Các số lô: 21, 73, 48, 42, 13, 76 và 30 mỗi số 50 điểm; các số lô 13, 50, 52 mỗi số 10 điểm. Tổng số điểm lô mà Triều đã nhận ghi của H là 380 điểm, tương ứng số tiền là 8.360.000 đồng.

- Số đề 07 = 200.000 đồng; các số đề 93, 92, 13 và 82 mỗi số 25.000 đồng.

Tổng số tiền đề mà T đã nhận ghi của H là 300.000 đồng.

- Số lô xiên 3: 13, 92 và 18 = 50.000 đồng. Tổng số tiền lô, đề và lô xiên mà T đã nhận ghi của H trong ngày 18/3/202 là 8.710.000đ (tám triệu bảy trăm mười nghìn đồng).

Sau khi nhận ghi các số lô, đề của Lê Văn H thì Phan Đình T đã dùng số điện thoại 0374.081.585 nhắn tin chuyển toàn bộ số lô, đề của Lê Văn H cho Nguyễn Thị L vào số điện thoại 0862.050.753 theo như thỏa thuận. Lê Văn H đã trúng thưởng các số lô 42, 13 và 76 mỗi số 50 điểm; các số lô 13 và 50, mỗi số 10 điểm. Tổng số điểm lô đã trúng thưởng là 170 điểm, tương ứng với số tiền thắng cược là 13.600.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền mà T và L đánh bạc với H trong ngày 18/3/2021 là 22.310.000đ (hai mươi hai triệu ba trăm mười nghìn đồng).

Ngoài ra, trong ngày 18/3/2021 vào lúc 17 giờ 53 phút, T đã nhận ghi của Nguyễn Thị H, sinh năm 1995, trú tại: xóm 2, xã S, huyện Q và Trương Văn H, sinh năm 1980, trú tại: Xóm 2, xã H, huyện Q các số lô, đề cụ thể như sau:

Đối với Nguyễn Thị H:

- Số lô 20 = 40 điểm; các số lô 15 và 11 = 30 điểm; số lô 10 = 20 điểm; các số lô 20, 30 và 21, mỗi số 10 điểm. Tổng số điểm lô mà T đã nhận ghi của H là 150 điểm, tương ứng với số tiền là 3.300.000 đồng.

- Số đề 20 = 100 điểm; các số đề 02, 11, 15, 51, 10 và 12, mỗi số 50.000 đồng; các số đề 01, 05, 42, 09, 10, 27, 48, 07, 77, 66, mỗi số 5.000 đồng. Tổng số tiền đề mà Tr đã nhận ghi của H là 580.000 đồng.

- Số lô xiên 3: 82, 50 và 21 = 20.000 đồng.

Như vậy, tổng số tiền đánh bạc của Nguyễn Thị H với Phan Đình Tr là 3.900.000đ (ba triệu chín trăm nghìn đồng). Hoa không trúng thưởng số nào.

Đối với Trương Văn H:

- Các số đề: 93, 39, 03, 30, 67, 76, 68, 86, 18, 81, 48, 84, 77, 46, 64, 78, 87, 46, 94 và 92 = 10.000 đồng mỗi số. Tương ứng với tổng số tiền là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng). Các số lô, số đề và số lô xiên nhận ghi của H và Hậu thì T giữ lại “ôm” để tính toán thắng, thua mà không chuyển cho Lý.

Quá trình điều tra chứng minh được số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc vào ngày 18/3/2021 và phải chịu trách nhiệm hình sự như sau: Bị cáo Phan Đình T 26.410.000đ (hai mươi sáu triệu, bốn trăm mười nghìn đồng).

Các bị cáo Nguyễn Thị L và Lê Văn H là 22.310.000đ (hai mươi hai triệu, ba trăm mười nghìn đồng).

Về vật chứng vụ án: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus, màu vàng có số Imel1: 355729076462428, gắn thẻ sim 037.408.1585 của bị cáo Phan Đình T, được bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Q;

Cáo trạng số: 101/CT-VKS-QL ngày 12/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Lưu truy tố các bị cáo Nguyễn Thị L, Phan Đình T và Lê Văn H đều về tội: "Đánh bạc", theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Đề nghị HĐXX: Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, r, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 và Điều 58 BLHS.

Xử phạt bị cáo Phan Đình T từ 18- 20 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, về tội: “Đánh bạc”; thời gian thử thách từ 36- 40 tháng. Không phạt tiền bổ sung bị cáo.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 và Điều 58 BLHS.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị L từ 18- 20 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, về tội: “Đánh bạc”; thời gian thử thách từ 36- 40 tháng. Không phạt tiền bổ sung bị cáo.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, p, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 và Điều 58 BLHS: Xử phạt bị cáo Lê Văn H từ 12- 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, về tội: “Đánh bạc”; thời gian thử thách từ 24- 30 tháng. Không phạt tiền bổ sung bị cáo.

- Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 BLHS: Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPone 6 Plus màu vàng, có Imeil 355729076462428, gắn thẻ sim 037.4081585 của bị cáo Phan Đình Triều.

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Phan Đình Tr, Nguyễn Thị L và Lê Văn H đều phải chịu án phí HSST theo quy định.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo Phan Đình Tr, Nguyễn Thị L và Lê Văn H: Các bị cáo đều xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Quỳnh Lưu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa các bị cáo Phan Đình Tr, Nguyễn Thị L và Lê Văn Hà đều thừa hành vi đánh bạc bằng hình thức lô, đề như Cáo trạng đã truy tố. Lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú, phù hợp các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và tang vật chứng mà bị cáo T giao nộp, có đủ căn cứ kết luận trong ngày 18/3/2021, các bị cáo Nguyễn Thị L, Phan Đình Tr, Lê Văn H và một số đối tượng khác đã đánh bạc trái phép với nhau với hình thức đánh số lô, đề căn cứ vào kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng hàng ngày.

Quá trình điều tra có căn cứ kết luận số tiền bị cáo Phan Đình Tr sử dụng đánh bạc với các bị cáo Lê Văn H, Nguyễn Thị L và các đối tượng Trương văn H, Nguyễn Thị H là 26.410.000đ (hai mươi sáu triệu bốn trăm mười nghìn đồng). Số tiền các bị cáo Nguyễn Thị L và Lê Văn H đánh bạc với nhau là 22.310.000đ (hai mươi hai triệu ba trăm mười nghìn đồng). Khi thực hiện tội phạm các bị cáo T, L và H đều có đủ khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự nên hành vi của các bị cáo đã cấu thành tội đánh bạc; tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng; có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đó là: Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm i và s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo H là người bị khuyết tật nặng, được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo Tr đã tự thú về hành vi phạm tội nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 BLHS. Các bị cáo L và H đã đầu thú về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.

Vụ án có tính chất ít nghiêm trọng, đồng phạm giản đơn. Hành vi đánh bạc của các bị cáo bị pháp luật ngăn cấm nhưng vì muốn thu lợi bất chính mà cố tình phạm tội, xâm phạm an ninh trật tự công cộng; làm ảnh hưởng xấu đến kinh tế, tình cảm nhiều gia đình, là một trong nhiều nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội khác nên phải xử lý bằng luật hình.

Xét vai trò của các bị cáo trong vụ án: Bị cáo L là chủ đề. Bị cáo T là người ghi đề và ôm đề; đánh bạc với nhiều người và đánh số tiền nhiều nhất. Ngoài ra, bị cáo Tr có hành vi đánh bạc trước đó vài giờ và đã bị Công an huyện Quỳnh Lưu xử phạt hành chính. Vai trò của bị cáo L và bị cáo T ngang nhau nên lên mức án bằng nhau. Đối với bị cáo H đánh bạc số tiền ít hơn nên áp dụng hình phạt thấp hơn các bị cáo L và T, nhưng cũng cần xét xử nghiêm minh đối với các bị cáo. Tuy nhiên cũng nên giảm một phần hình phạt cho các bị cáo vì có nhiều tình tiết giảm nhẹ, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nơi cư trú, làm việc cụ thể rõ ràng, chưa được hưởng lợi bất chính. Do đó, cho các bị cáo L và T được hưởng án treo. Không áp dụng hình phạt bổ sung các bị cáo vì hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn. Cho bị cáo H được cải tạo không giam giữ tại địa phương; không khấu trừ thu nhập vì bị cáo là người bị khuyết tật nặng, cũng có tác dụng giáo dục các bị cáo và phòng chống loại tội phạm này.

[4] Đối với các đối tượng Nguyễn Thị H và Trương Văn H đã tham gia đánh bạc bằng hình thức ghi số lô, đề với bị cáo Triều, nhưng số tiền chưa đến mức truy tố trách nhiệm hình sự nên Cơ quan Điều tra Công an huyện Q đã xử phạt hành chính là có căn cứ.

[5] Đối với hành vi đánh bạc bằng máy điện tử “thỏ, khỉ” và “bắn cá” của các đối tượng Phan Đình Tr, Trương Gia Ph, Phan Văn H, Hồ Đức C, Trương Gia Ph, Hoàng Văn T, Phan Văn H, Phạm Văn Th và Phan Văn Đ đã được xử lý bằng một vụ án độc lập theo quyết định khởi tố vụ án hình sự số 71, ngày 25/3/2021 của Cơ quan CSĐT Công an huyện Q.

[6] Về vật chứng: 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPone 6 Plus màu vàng, có Imeil 355729076462428, gắn thẻ sim 037.4081585, là phương tiện bị cáo Triều sử dụng liên lạc đánh bạc nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

[7] Về án phí: Các bị cáo Phan Đình T, Nguyễn Thị L và Lê Văn H đều phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 khoản 2 Điều 51; Điều 65 và Điều 58 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị L 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, về tội:“Đánh bạc”; thời gian thử thách từ 18 (mười tám) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 31/5/2021).

2. Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 321; các điểm i, r, s khoản 1 Điều 51; Điều 65; Điều 58 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Phan Đình T 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, về tội:“Đánh bạc”; thời gian thử thách từ 18 (mười tám) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 31/5/2021).

Tòa án giao bị cáo Nguyễn Thị L cho UBND thị trấn C, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Tòa án giao bị cáo Phan Đình T cho UBND xã B , huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

“Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo”.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.

3. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, p, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 36 và Điều 58 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Văn H từ 15 tháng (mười lăm) tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”; thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày UBND xã Quỳnh Bá, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Tòa án giao bị cáo Lê Văn H cho UBND xã B, huyện Q, tỉnh Nghệ An giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

- Về xử lý vật chứng:

Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPone 6 Plus màu vàng, có Imeil 355729076462428, gắn thẻ sim 037.4081585 của bị cáo Phan Đình Triều; (đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng được lập vào hồi 10 giờ 20 phút, ngày 13/5/2021, giữa Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Quỳnh Lưu với Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An).

- Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo Nguyễn Thị L, Phan Đình T và Lê Văn H, mỗi người phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 98/2021/HS-ST ngày 31/05/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:98/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Lưu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về