Bản án 98/2020/HS-ST ngày 29/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ LA, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 98/2020/HS-ST NGÀY 29/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã L xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 93/2020/TLST-HS ngày 02 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2020/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần V (tên gọi khác: H), sinh ngày 24/7/2002 tại Bình Thuận:

Nơi cư trú: Khu phố 3, phường Tân Thiện, thị xã L, tỉnh Bình Thuận:

Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 8/12:

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; Con bà: Phạm Thị N, sinh năm 1962; Không xác định được cha ruột; Vợ, con: Chưa có:

Tiền án, tiền sự: Không:

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 23/6/2020 đến ngày 26/6/2020 được trả tự do, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ 00 phút, ngày 23/6/2020, tại sảnh lễ tân khách sạn N. N thuộc khu phố 3, phường Tân Thiện, thị xã L, tỉnh Bình Thuận, Công an thị xã L phát hiện, bắt quả tang bị cáo Trần V tàng trữ 02 bịch nylon có nhíp kéo màu đỏ, có kích thước (05 x 08)cm, trong đó có 01 bịch chứa 01 viên nén hình chữ nhật, màu xám, kích thước (0,8 x 01)cm, bên trên bề mặt có chữ BERGHAIN và 01 bịch chứa 02 viên nén hình chữ nhật, màu xám, kích thước (0,8 x 01)cm, bên trên bề mặt có chữ BERGHAIN trong túi quần nhỏ, phía trước, bên phải của bị cáo V đang mặc.

Tại Kết luận giám định số: 689/KLGĐ-PC09 ngày 30/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận thể hiện:

+ Đối tượng giám định: Phong bì được niêm phong còn nguyên vẹn, có các chữ ký ghi tên: Phạm Ngọc T, Trần V, Nguyễn Phi T, hình dấu tròn màu đỏ của cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thị xã L; Trong phong bì có 02 gói nylon có nhíp kéo màu đỏ, có kích thước (05 x 08)cm, trong đó:

- 01 gói nylon chứa 01 viên nén hình chữ nhật, màu xám, kích thước (0,8 x 01)cm, bên trên bề mặt có chữ BERGHAIN (ký hiệu M1):

- 01 gói nylon chứa 02 viên nén hình chữ nhật, màu xám, kích thước (0,8 x 01)cm, bên trên bề mặt có chữ BERGHAIN (ký hiệu M2).

+ Kết luận giám định:

- Mẫu M1 gửi giám định có khối lượng 0,5299 gam; là MDMA:

- Mẫu M2 gửi giám định có khối lượng 0,9987 gam; là MDMA:

Về nguồn gốc bịch ma túy trên thì bị cáo V trình bày là vào khoảng 13 giờ ngày 23/6/2020, bị cáo mua của 01 người thanh niên tên T (không rõ nhân thân, lai lịch) với giá 900.000 đồng tại khu vực chợ Đại Đồng thuộc phường Phước Hội, thị xã L với mục đích để sử dụng. Đến 17 giờ cùng ngày, bị cáo V đến khách sạn N. N thuê phòng để sử dụng thì bị bắt quả tang.

Về vật chứng vụ án: Là 01 phong bì niêm phong, còn nguyên vẹn số 689, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung H và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.

Sau khi phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ những chứng cứ xác định có tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân bị cáo; tội danh, hình phạt, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã La giữ quyền công tố kết luận: Giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung bản Cáo trạng số: 91/CT-VKS ngày 30/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã L truy tố bị cáo Trần V, về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trần V phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Chương XII Bộ luật hình sự.

Phạt bị cáo Trần V mức án từ: 09 tháng đến 12 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong, còn nguyên vẹn số 689, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung H và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.

- Ý kiến của bị cáo Trần V: Đồng ý với nội dung luận tội của Kiểm sát viên nên không có ý kiến tranh luận.

* Bị cáo Trần V nói lời sau cùng: Bị cáo thấy hành vi của mình là sai trái, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Xét thấy lời trình bày của bị cáo Trần V tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, đối chiếu với những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở và căn cứ pháp lý kết luận: Vào khoảng 17 giờ 00 phút, ngày 23/6/2020, tại sảnh lễ tân khách sạn N. N thuộc khu phố 3, phường Tân Thiện, thị xã L, tỉnh Bình Thuận, bị cáo V đã tàng trữ trái phép tổng cộng 1,5286 gam MDMA dùng để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo Trần V đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã L truy tố đối với bị cáo Trần V về tội danh, điều luật là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Tệ nạn ma tuý là hiểm hoạ lớn cho toàn xã hội, gây tác hại cho sức khoẻ, làm suy thoái nòi giống, phẩm giá con người, phá hoại hạnh phúc gia đình, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia. Do đó, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; Đối với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, vì vậy, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt: Bị cáo V khi thực hiện hành vi phạm tội đã đủ 16 tuổi nhưng dưới 18 tuổi nên mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định; Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo nhận thức về tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội có phần hạn chế, nhưng bị cáo nhận thức được ma túy là chất gây nghiện, hủy hoại sức khỏe, Nhà nước nghiêm cấm hành vi tàng trữ trái phép nhưng bị cáo bất chấp pháp luật, đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm sử dụng cho bản thân. Vì vậy, cần xử lý nghiêm khắc nhằm cách ly bị cáo ra khỏi tệ nạn ma túy và đời sống xã hội một thời gian đủ để bị cáo lánh xa ma túy và lao động, học tập, giáo dục trở thành con người có ích cho gia đình và xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Là 01 phong bì niêm phong, còn nguyên vẹn số 689, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung H và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, vì vậy cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo Trần V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: - Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 90, Điều 91 và Điều 101 Bộ luật hình sự:

- Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

- Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Trần V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần V 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo Trần V thi hành án phạt tù nhưng được khấu trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 23/6/2020 đến ngày 26/6/2020.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong, còn nguyên vẹn số 689, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung H và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận (Hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã L theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/10/2020 giữa Cơ quan CSĐT Công an thị xã L và Chi cục thi hành án dân sự thị xã L).

Về án phí: Bị cáo Trần V phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo Trần V có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (29/10/2020).

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 98/2020/HS-ST ngày 29/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:98/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị Xã La Gi - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về