Bản án 98/2020/HS-ST ngày 15/07/2020 về tội buôn bán hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L – TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 98/2020/HS-ST NGÀY 15/07/2020 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 15/7/2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 81/2020/TLST-HS ngày 19 tháng 05 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 101/2020/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần Ngọc Quang V; sinh năm 1989 tại Đồng Nai. Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam Hộ khẩu thường trú: khu phố T 2, phường P, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

 Nơi cư trú: khu phố T 2, phường P, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc : Kinh. Giới tính:

Nam, Tôn giáo: Công giáo; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Trần Ngọc T (đã chết) và bà Nguyễn Thị Kim T, sinh năm: 1959; Bị cáo là con thứ 03 trong gia đình có 04 anh chị em; Có vợ là Phan Thanh T, sinh năm 1989, có 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2014.

Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Ngày 11/3/2009 bị Tòa án nhân dân huyện L xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 tháng về tội Cố ý gây thương tích theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 15/01/2020 đến ngày 22/01/2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại khu phố khu phố T 2, phường P, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. (Có mặt) Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1/ Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1960 (có đơn xin vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp 1, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Nai 2/ Công ty TNHH Một thành viên P (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Số 17/2, tổ 15A, Khu phố 2, phường B1, thành phố B, tỉnh Đồng Nai Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Mạnh Thanh T, sinh năm 1992.

Chức danh: Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm Giám đốc.

Người làm chứng: Anh Võ Duy T, sinh năm 1989 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp 1, xã B, huyện L, tỉnh Đồng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ năm 2018, Trần Ngọc Quang V có quen biết với một người tên “T” ở tỉnh Tây Ninh (không rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể). Tháng 7/2019, T nói với V có nguồn thuốc lá điếu nhập lậu và rủ V cùng hợp tác bán thuốc lá với T, V đồng ý. Nhiệm vụ của V là khi T gọi điện thoại thì V đến vòng xoay cao tốc, huyện L nhận thuốc lá do T gửi đến và đi giao cho người mua. T và V thỏa thuận cứ bán được 1 bao thuốc lá thì V được hưởng 300 đồng. Loại thuốc lá T và V bán có hiệu JET và HERO. Sau đó, T có đưa V đi đến các địa điểm quán tạp hóa để hướng dẫn công việc cho V. Từ ngày 14/01/2020, V bắt đầu trực tiếp đến các quán tạp hóa ở khu vực huyện L để giao thuốc lá. Lúc 08 giờ ngày 15/01/2020, V điều khiển xe ô tô biển số 60A-527.59 đến vòng xoay cao tốc để nhận 2.300 bao thuốc lá hiệu JET và 300 bao thuốc lá hiệu HERO do T gửi đến bằng xe ô tô (không rõ biển số). Đến 10 giờ 30 phút cùng ngày, V điều khiển xe ô tô hiệu 60A-627.59 chở số thuốc lá trên đến ấp 1, xã B, huyện L giao cho bà Nguyễn Thị T 600 bao thuốc lá hiệu JET (chưa nhận tiền) thì bị Công an huyện L kết hợp với Công an xã B bắt quả tang. Quá trình bán thuốc lá thì V chưa nhận được tiền công do T trả.

Ngoài ra, ngày 14/01/2020, V đã bán cho bà T 600 bao thuốc lá hiệu JET với giá 10.620.000 đồng (bà T chưa trả tiền). Số thuốc JET này, bà T đã bán cho khách (không rõ lai lịch) 577 gói, thu được tổng số tiền 10.386.000 đồng, còn lại 23 gói bà T tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra Công an huyện L.

Vật chứng vụ án: 2.323 bao thuốc lá hiệu JET và 300 bao thuốc lá hiệu HERO; 1 điện thoại hiệu Iphone (số seri F2LRHOWGRWM) do V sử dụng vào việc phạm tội và 10.386.000 đồng (do bà T tự nguyện giao nộp). Số vật chứng đã được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện L.

Đối với xe ô tô biển số 60A-527.59 do V thuê của Công ty TNHH Một thành viên P làm phương tiện đi lại, việc V sử dụng vào việc phạm tội Công ty không biết nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe ô tô trên cho Công ty TNHH P.

Quá trình điều tra còn tạm giữ của V 01 điện thoại Iphone có số Seri F2MZK2FNN70G, xét không liên quan đến vụ án nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho V.

Riêng 577 bao thuốc lá bà T mua của V ngày 14/01/2020, bà T đã bán cho người mua (không rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể) nên Cơ quan điều tra không thu giữ được.

Trước Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện L bị cáo Trần Ngọc Quang V đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nêu trên phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng cùng các vật chứng, chứng cứ, tài liệu đã được thu thập tại hồ sơ vụ án.

Tại bản Cáo trạng số 93/CT-VKSLT ngày 06 tháng 5 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện L đã truy tố bị cáo Trần Ngọc Quang V về tội danh: “Buôn bán hàng cấm” được quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 190 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo điều khoản nói trên và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b, khoản 1, Điều 190; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Trần Ngọc Quang V số tiền từ 200.000.000đ đến 300.000.000đ sung vào Ngân sách Nhà nước.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Ngọc Quang V đã khai nhận hành vi phạm tội, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ đó, đã có đủ cơ sở xác định Trần Ngọc Quang V có quen biết với một người tên “T” ở tỉnh Tây Ninh (không rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể). Tháng 7/2019, T rủ V cùng bán thuốc lá điếu nhập lậu với T, V đồng ý. Lúc 10 giờ 30 phút ngày 15/01/2020, V điều khiển xe ô tô biển số 60A-527.59 chở 2.300 bao thuốc lá hiệu JET và 300 bao thuốc lá hiệu HERO đến ấp 1, xã B, huyện L bán cho Nguyễn Thị T 600 bao thuốc lá hiệu JET (chưa nhận tiền) thì bị Công an huyện L kết hợp với Công an xã B bắt quả tang. Quá trình bán thuốc lá thì V chưa nhận được tiền công do T trả.

Hành vi của bị cáo Trần Ngọc Quang V đã đủ yếu tố cấu thành tội “Buôn bán hàng cấm” được quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 190 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện L truy tố bị cáo với tội danh và khung hình phạt nêu trên là có căn cứ và đúng quy định pháp luật.

[2] Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo là người trưởng thành, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi buôn bán hàng cấm là vi phạm pháp luật nhưng chỉ vì mục đích lợi nhuận, bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương đồng thời còn là nguyên nhân gây ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe cộng đồng.

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo như sau:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015.

Căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo cũng đủ sức răn đe và phù hợp, tạo điều kiện cho bị cáo sửa chữa sai lầm trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

[3] Về xử lý vật chứng:

- Số lượng 2.323 bao thuốc lá hiệu JET và 300 bao thuốc lá hiệu HERO là hàng cấm đã thu giữ của bị cáo và bà T nên tịch thu tiêu hủy:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone (số seri F2LRHOWGRWM) bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước:

- Số tiền 10.386.000 đồng là tiền bà Nguyễn Thị T thu lợi bất chính từ việc buôn bán thuốc lá (do bà T tự nguyện giao nộp) nên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

Đối với xe ô tô biển số 60A-527.59 do V thuê của Công ty TNHH Một thành viên P làm phương tiện đi lại, việc V sử dụng xe vào việc phạm tội Công ty không biết nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe ô tô trên cho Công ty TNHH Một thành viên P; quá trình điều tra còn tạm giữ của V 01 điện thoại di động hiệu Iphone có số Seri F2MZK2FNN70G, xét không liên quan đến vụ án nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho V là đúng quy định.

Đối với 577 bao thuốc lá bà T mua của V ngày 14/01/2020, bà T đã bán cho người mua (không rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể) nên Cơ quan điều tra không thu giữ được.

[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Về tính hợp pháp của các quyết định, hành vi tố tụng của điều tra viên, kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đều được thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

Đối với bà Nguyễn Thị T có hành vi buôn bán hàng cấm thuốc lá điếu nhập lậu với số lượng 600 bao thuốc lá, chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự nên Công an huyện L đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 2.500.000đ là đúng quy định pháp luật.

Trong vụ án này còn có người tên T có hành vi buôn bán hàng cấm nhưng chưa rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện L tiếp tục điều tra xử lý sau.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b, khoản 1, Điều 190; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017: Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc Quang V phạm tội: “Buôn bán hàng cấm”.

Xử phạt bị cáo Trần Ngọc Quang V số tiền 200.000.000 (hai trăm triệu) đồng sung vào ngân sách Nhà nước.

Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy: 2.323 bao thuốc lá hiệu JET và 300 bao thuốc lá hiệu HERO:

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Iphone (số seri F2LRHOWGRWM):

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện L).

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 10.386.000 (mười triệu ba trăm tám mươi sáu nghìn) đồng (theo Biên lai thu số 06827 ngày 19/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện L).

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

262
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 98/2020/HS-ST ngày 15/07/2020 về tội buôn bán hàng cấm

Số hiệu:98/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về