Bản án 98/2018/HNGĐ-ST ngày 19/10/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHƠN TRẠCH - TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 98/2018/HNGĐ-ST NGÀY 19/10/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 19 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 400/2018/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 6 năm 2018 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 95/2018/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 9 năm 2018 và quyết định hoãn phiên tòa số 77/2018/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 9 năm 2018, giữa các đương sự:

+ Nguyên đơn: Chị Võ Thị Hồng H, sinh năm 1983.

Địa chỉ: tổ 3, ấp B, xã P, huyện N, tỉnh Đ.

+ Bị đơn: Anh Ngô Duy Nhật T, sinh năm 1981.

Địa chỉ: tổ 3, ấp B1, xã P1, huyện N1, tỉnh Đ1.

(Chị H, anh T vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 13/6/2018 và các lời khai tiếp theo tại Tòa, nguyên đơn chị Võ Thị Hồng H trình bày:(tại hồ sơ) Giữa chị và anh T xây dựng gia đình với nhau vào năm 2007, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện N, tỉnh Đ.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2008 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh T cờ bạc, cá độ bóng đá dẫn đến nợ nần, chị phải tự mình đứng ra trả nợ cho anh T, mặc dù chị đã nhiều lần khuyên anh T tu chí làm ăn nhưng anh vẫn không thay đổi. Ngoài ra, anh T không quan tâm lo lắng cho gia đình, đi làm nhưng không phụ tiền chị lo cho gia đình. Vợ chồng đã tự sống ly thân khoảng 03 năm nay, việc ai người đó làm, không quan tâm lẫn nhau.

Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.

+ Về con chung: Có 01 cháu tên Ngô Duy Khánh M, sinh ngày 10/12/2009.

Hiện chị đang nuôi dưỡng. Nếu Tòa án giải quyết cho ly hôn, chị xin được nuôi cháu M và không yêu cầu anh T cấp dưỡng.

+ Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa giải quyết.

 Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch:

- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về việc tuân thủ pháp luật của các đương sự: Chị H thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình đúng quy định pháp luật, còn anh T không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án để đến tham dự phiên tòa.

- Về nội dung: Đề nghị chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn chị Võ Thị Hồng H.

Về nuôi con chung: Giao cháu Ngô Duy Khánh M, sinh ngày 10/12/2009 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, tạm thời anh T không cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý hồ sơ vụ án, Tòa đã tống đạt thông báo thụ lý, giấy triệu tập, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho anh Ngô Duy Nhật T biết đến Tòa làm việc nhưng anh T không có mặt để cung cấp lời khai, không nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến cũng như ý kiến phản bác, do đó không có lời khai của anh T tại hồ sơ, Hội đồng xét xử căn cứ vào lời khai và những chứng cứ do chị H cung cấp làm căn cứ giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa hôm nay, chị H, anh T vắng mặt nhưng chị H có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt nên không đến tham dự phiên tòa, vì vậy căn cứ khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xử vắng mặt chị H, còn anh T Tòa án đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa, vì vậy căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự xử vắng mặt anh T.

[2] Về hôn nhân: Qua chứng cứ tại hồ sơ và lời khai chị H thể hiện giữa chị H và anh T xây dựng gia đình với nhau vào năm 2007, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện N, tỉnh Đ, do cả hai đều tự nguyện nên là hôn nhân hợp pháp.

Xét thấy chị H xin ly hôn nguyên nhân là do anh T không quan tâm, lo lắng cho gia đình, đi làm nhưng không phụ tiền chị lo cho gia đình và trong quá trình chung sống thường xuyên đánh bạc, cá độ bóng đá dẫn đến nợ nần, chị H phải làm để trả nợ cho anh T. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã mời anh T tham dự phiên hòa giải để Tòa án tiến hành hòa giải đoàn tụ nhưng anh T không đến dự phiên hòa giải, chứng tỏ anh T không có thiện chí đoàn tụ và theo lời khai của chị H giữa vợ chồng đã tự sống ly thân 03 năm nay nhưng không bàn bạc đoàn tụ được, chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng nên việc chị H xin ly hôn là chính đáng. Vì vậy căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị H được ly hôn anh T.

[3] Về con chung: Có 01 cháu tên Ngô Duy Khánh M, sinh ngày 10/12/2009.

Tại hồ sơ chị H xin được nuôi dưỡng cháu M. Xét thấy việc giao con cho chị H hay anh T nuôi dưỡng cần phải xem xét vào điều kiện và hoàn cảnh sống của mỗi bên nhằm đảm bảo sự phát triển bình thường cho trẻ. Chị H và anh T đều có đủ điều kiện nuôi dạy con tốt nhưng hiện cháu M đã trên 07 tuổi, qua tham khảo ý kiến cháu có nguyện vọng được sống với chị H. Vì vậy giao cháu M cho chị H nuôi dưỡng là phù hợp với nguyện vọng của cháu và các Điều 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình.

Chị H nuôi con không yêu cầu anh T cấp dưỡng nên không xét.

[4] Về tài sản chung: Do không ghi được lời khai của anh T nên không có cơ sở xem xét về tài sản, vì vậy các đương sự được quyền khởi kiện về việc chia tài sản chung nếu có yêu cầu.

[5] Về nợ chung: không xem xét.

[6] Về án phí: Chị H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

 Xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp với nhận định nên ghi nhận.

Vì các lẽ trên,  

QUYẾT ĐỊNH

 - Căn cứ Điều 28, 35, 147, khoản 1 Điều 227, điểm b, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, 266, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình.

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn chị Võ Thị Hồng Hạnh. Xử cho chị H được ly hôn anh Ngô Duy Nhật T.

2. Về nuôi con chung: Giao cháu Ngô Duy Khánh M, sinh ngày 10/12/2009 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng.

Tạm thời anh T không cấp dưỡng nuôi con chung, anh T được quyền đến thăm con không ai được cản trở. Khi cần thiết các đương sự được quyền xin thay đổi việc nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét Về án phí: Chị H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 003839 ngày 13/6/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Nhơn Trạch. Chị H đã nộp đủ án phí.

Chị H, anh T vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tròn kể từ ngày nhận bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 98/2018/HNGĐ-ST ngày 19/10/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:98/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhơn Trạch - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về