TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐĂK LĂK
BẢN ÁN 97/HNGĐ-ST NGÀY 27/08/2020 VỀ XIN LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG
Ngày 27 tháng 08 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 112/2020/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 02 năm 2020 về việc: “Xin ly hôn và nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 105/2020/QĐXX-ST ngày 17/7/2020; Quyết định hoãn phiên tòa số: 73/2020/QĐ-HPT ngày 03/08/2020, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Hồ Thị Trân C, sinh năm 1996; Trú tại: phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk,(có mặt);
2. Bị đơn: Anh Đậu Thiện N, sinh năm 1993; Trú tại: phường Thành C, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, (vắng mặt);
NỘI DUNG VỤ ÁN
*Theo đơn xin ly hôn và các lời khai tại Tòa án nhân dân Thành phố B, chị C trình bày: Tôi và ông N xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở yêu thương tự nguyện có đăng ký kết hôn vào ngày 08/7/2015; tại UBND phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Trong thời gian chung sống, vợ chồng hạnh phúc được thời gian đầu sau đó thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, không tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau và ông N có nghiện ma túy nên dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra ra xô xát, cãi vã nhau. Đến tháng 6/2016 thì mâu thuẫn vợ chồng phát sinh căng thẳng và vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Nay tôi xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể hàn gắn được nữa, nên tôi yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn ông N.
* Về con chung: Tôi và ông N có 01 con chung là Đậu Anh Q, sinh ngày 07/9/2014, hiện nay cháu Q đang ở với tôi, khi ly hôn tôi có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Q cho đến khi đủ 18 tuổi.
* Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không yêu cầu tòa án giải quyết.
* Về tài sản và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Mặc dù, Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý, giấy triệu tập hợp lệ nhưng bị đơn vẫn cố tình lẩn tránh, nên Tòa án không ghi được ý kiến của bị đơn và đưa vụ án ra xét xử tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
* Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và căn cứ vào kết quả xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
- Đây là vụ án: “Xin ly hôn và nuôi con chung” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố B, theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 9; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 53 Luật hôn nhân gia đình.
- Bị đơn, đã được Tòa án nhân dân Thành phố B, tống đạt, niêm yết giấy triệu tập đương sự hợp lệ đến phiên tòa xét xử lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt; Áp dụng Điều 227; khoản 3 Điều 228; khoản 1 Điều 232 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn, theo thủ tục quy định chung.
[2] Về nội dung tranh chấp:
[2.1] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị C và anh N đến với nhau bằng tình cảm yêu thương tự nguyện và có đăng ký kết hôn, là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc được một thời gian đầu sau đó thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, không tôn trọng và quan tâm gì tới nhau, anh chị đã cố gắng khắc phục và đã nhiều lần được gia đình, anh em, bạn bè khuyên giải và chính quyền địa phương can thiệp, nhưng không có kết quả. Từ đó dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể tiếp tục được nữa, nên anh chị đã ly thân nhau từ năm 2016 cho đến nay. Nay nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh N. Điều này chứng tỏ rằng: Tình trạng hôn nhân giữa chị C và anh N, đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể hàn gắn được nữa, mục đích hôn nhân không đạt được, nên yêu cầu xin ly hôn của bà C cần được chấp nhận, phù hợp với Điều 9; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 53; khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình.
[2.2] Về con chung: Chị C và anh N có 01 con chung là Đậu Anh Q, sinh ngày 07/9/2014, hiện nay cháu Q đang ở với chị C, chị C luôn có nguyện vọng xin được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Q cho đến khi cháu Q đủ 18 tuổi. Hội đồng xét xử xét thấy: Trong suốt quá trình giải quyết, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần, nhưng anh N vẫn cố tình vắng mặt. Vì thế, Tòa án không ghi được ý kiến của anh N về yêu cầu này của nguyên đơn. Qua xem xét hồ sơ vụ án cho thấy: Anh N không có trách nhiệm gì đến gia đình và con cái. Do vậy, nghĩ để cuộc sống của cháu Q được đảm bảo thì cần giao cho chi C trực tiếp nuôi dưỡng đến khi cháu Q đủ 18 tuổi, là phù hợp với Điều 69, 70, 71, 72 Luật hôn nhân gia đình và Điều 12 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị C không yêu cầu anh N cấp dưỡng, nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét.
[2.4] Về tài sản: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét.
[3] Về án phí: Áp dụng Điều 26 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án, thì chị C phải chịu án phí HNGĐ-ST là: 300.000đồng.
- Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1,2,3 Điều 144; 145; khoản 1 Điều 146; khoản 4 Điều 147; Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Áp dụng Điều 9; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 53; Điều 54; khoản 1 Điều 56; Điều 69, 70, 71, 72 Luật hôn nhân gia đình và Điều 12 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
- Áp dụng Điều 26 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn và nuôi con chung của chị Hồ Thị Trân C.
1. Về hôn nhân: Xử cho chị Hồ Thị Trân C được ly hôn anh Đậu Thiện N.
2. Về con chung: Giao cho chị Hồ Thị Trân C được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đậu Anh Q, sinh ngày 07/9/2014 đến khi cháu Q đủ 18 tuổi.
Anh Đậu Thiện N được quyền thăm nom và chăm sóc con chung, không ai được quyền cản trở. 3. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Hồ Thị Trân C không yêu cầu nên Tòa án không đặt ra để giải quyết.
4. Về tài sản: Chị Hồ Thị Trân C không yêu cầu nên Tòa án không đặt ra để giải quyết.
5. Về án phí: Chị Hồ Thị Trân C phải chịu án phí HNGĐ-ST là 300.000đồng, được khấu trừ vào số tiền đã nộp tạm ứng án phí 300.000đồng theo biên lai số AA/2019/0005865 ngày 21-02-2020 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố B.
6. Về quyền kháng cáo:
- Chị Hồ Thị Trân C có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
- Anh Đậu Thiện N có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ.
Bản án 97/HNGĐ-ST ngày 27/08/2020 về xin ly hôn và nuôi con chung
Số hiệu: | 97/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về