Bản án 97/2019/HNGĐ-ST ngày 19/11/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM - TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 97/2019/HNGĐ-ST NGÀY 19/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 19 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 524/2019/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 7 năm 2019 về việc “Tranh chấp ly hôn, con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 77/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 14/10/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 128/2019/QĐHPT-ST ngày 01/11/2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: ChNgô Bích V, sinh năm 1986.

Đa chỉ: Số 60B tổ 2, ấp 1, xã S, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Tuấn K, sinh năm: 1986.

Đa chỉ: Số 123/3 ấp A, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

(chị V có mặt, anh K vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn chị Ngô Bích V trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị V và anh K tự nguyện thương yêu nhau, có đăng ký kết hôn tại xã T, huyện T, tỉnh Đồng Nai được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 30/9/2009.

Trong quá trình chung sống vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng không có sự tin tưởng nhau về vấn đề kinh tế, luôn bất đồng quan điểm sống dẫn đến việc cãi vã nhau làm mất tình cảm vợ chồng. Nay chị xác định vợ chồng không còn tình cảm với nhau. Khả năng đoàn tụ gia đình không có. Do vậy chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Tuấn K.

Về con chung: Vợ chồng chung sống có 02 (hai) con chung là cháu Nguyễn Hoàng Q – sinh ngày 11/9/2010 và Nguyễn Hoàng Ngọc D – sinh ngày 19/12/2014. Khi ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Q và cháu D. Chị V không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con chung.

Tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nợ chung: Không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bị đơn anh Nguyễn Tuấn K trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh K và chị V tự nguyện thương yêu nhau, có đăng ký kết hôn tại xã T, huyện T, tỉnh Đồng Nai được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 30/9/2009.

Trong quá trình chung sống vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng không có sự tin tưởng nhau về vấn đề kinh tế, luôn bất đồng quan điểm sống dẫn đến việc cãi vã nhau làm mất tình cảm vợ chồng. Từ tháng 6/2019 vợ chồng không sống chung với nhau. Tuy nhiên, anh K vẫn còn tình cảm với chị V, do vậy chị V yêu cầu xin ly hôn thì anh K không đồng ý và mong muốn được đoàn tụ gia đình.

Về con chung: Vợ chồng chung sống có 02 (hai) con chung là cháu Nguyễn Hoàng Q – sinh ngày 11/9/2010 và Nguyễn Hoàng Ngọc D – sinh ngày 19/12/2014.

Trong trường hợp ly hôn thì anh K đồng ý giao hai con chung là cháu Nguyễn Hoàng Q và cháu Nguyễn Hoàng Ngọc D cho chị V trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Tạm thời anh không cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Anh K không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nợ chung: Không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diệ n Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

- Về nội dung: Về quan hệ pháp luật, thẩm quyền, xác định tư cách pháp lý và mối quan hệ giữa những người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ, thủ tục hòa giải, thời hạn chuẩn bị xét xử, quyết định xét xử, thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu, cấp, tống đạt các văn bản tố tụng; việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng được Tòa án thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.

- Về đường lối giải quyết vụ án: Đơn khởi kiện xin ly hôn của chị V là có cơ sở chấp nhận nên đề nghị cho chị V được ly hôn với anh K. Về con chung: Giao con chung cho chị V nuôi dưỡng, tạm thời anh K không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự trình bày không có nên đề nghị không đặt ra xem xét. Về án phí: Đương sự phải nộp án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Chị Ngô Bích V yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Tuấn K sinh năm: 1986, có nơi cư trú tại: số 123/3 ấp A, xã T, huyện T, Đồng Nai nên theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì quan hệ pháp luật là “Tranh chấp ly hôn”, nuôi con chung, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai.

[2] Về Thủ tục tố tụng: Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng anh Nguyễn Tuấn K vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Nguyễn Tuấn K.

[3] Về yêu cầu khởi kiện:

3.1 - Về quan hệ hôn nhân:

Quan hệ hôn nhân giữa chị V và anh K được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 30 tháng 9 năm 2009, hôn nhân của chị V và anh K phù hợp với các Điều 9; Điều 11 và Điều 12 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, do vậy đây là hôn nhân hợp pháp và được pháp luật bảo vệ. Tại phiên tòa, chị V giữ nguyên ý kiến xin được ly hôn, anh K không đồng ý ly hôn vì vẫn còn tình cảm yêu thương đối với chị V và mong muốn vợ chồng đoàn tụ.

Chị V và anh K đều thừa nhận, giữa chị V và anh K không có sự tin tưởng nhau về tình cảm, đồng thời vợ chồng không chung sống với nhau từ tháng 6/2019 đến nay, bản thân chị V không còn tình cảm với anh K, mạnh ai người đó sống, vợ chồng không thương yêu, quý trọng nhau, không giúp đỡ nhau, vi phạm nghĩa vụ vợ chồng với nhau.

Xét, yêu cầu được đoàn tụ gia đình của anh K thì thấy: Tại biên bản lấy lời khai ngày 25/7/2019 thì anh K xác định anh không còn tình cảm với chị V, khả năng đoàn tụ gia đình là không có, sau đó tại biên bản lấy lời khai ngày 8/8/2019, anh K cho rằng vẫn còn tình cảm với chị V và mong muốn đoàn tụ.

Tuy nhiên, Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh K đến Tòa án làm việc để đưa ra những biện pháp hàn gắn tình cảm để vợ chồng đoàn tụ xây dựng gia đình nhưng tại các buổi làm việc, hoà giải cũng như tại phiên tòa anh K vắng mặt thể hiện việc không có thiện chí hòa giải, đoàn tụ gia đình. Do vậy, xét yêu cầu được đoàn tụ gia đình của anh K là không có căn cứ chấp nhận.

Từ những nhận định, phân tích trên, xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị V và anh K đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, chị V yêu cầu ly hôn với anh K là có căn cứ phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và Gia đình năm 2014 xét cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Ngô Bích V.

3.2 - Về con chung:

Chị V, anh K 02 (hai) con chung là cháu Nguyễn Hoàng Q – sinh ngày 11/9/2010 và Nguyễn Hoàng Ngọc D – sinh ngày 19/12/2014. Hiện cháu Q và cháu D đang do chị V trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Hơn nữa, cháu Q có nguyện vọng được ở chung với chị V. Vì vậy để ổn định cuộc sống của con trẻ, đảm bảo cho con có điều kiện phát triển tốt nhất về trí lực và thể lực, cần tiếp tục giao cháu Nguyễn Hoàng Q và cháu Nguyễn Hoàng Ngọc D cho chị V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là đúng theo quy định của pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con: Do chị V không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn, do vậy HĐXX không xem xét.

3.3. Về tài sản chung, nợ chung: Các bên đương sự trình bày không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, chị V phải chịu 300.000đ án phí DSST.

[5] Xét, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom về đường lối giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của HĐXX nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28; 35; 39; 147; 220; 227; 228; 264 và Điều 266 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng Điều 9; Điều 11, Điều 12 luật Hôn nhân gia đình năm 2000;

- Áp dụng khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Ngô Bích V về việc “Tranh chấp ly hôn và nuôi con chung” với anh Nguyễn Tuấn K.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Ngô Bích V được ly hôn với anh Nguyễn Tuấn K.

Về con chung: Giao cháu Nguyễn Hoàng Q – sinh ngày 11/9/2010 và Nguyễn Hoàng Ngọc D – sinh ngày 19/12/2014 cho chị Ngô Bích V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Tm thời anh Nguyễn Tuấn K không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Anh Nguyễn Tuấn K được quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung khi cần thiết các đương sự được quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu mức cấp dưỡng nuôi con chung.

2. Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét giải quyết.

3. Về án phí: Chị Ngô Bích V phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí mà chị V đã nộp theo biên lai thu số 0006914 ngày 18 tháng 7 năm 2019 tại Chi Cục thi hành án dân sự huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai.

4. Chị V có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh K được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 97/2019/HNGĐ-ST ngày 19/11/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:97/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về