Bản án 97/2018/HS-ST ngày 24/04/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 97/2018/HS-ST NGÀY 24/04/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 4 năm 2018, tại Tru sơ Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 90/2018/TLST- HS ngày 04/4/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 97/2018/QĐXXST-HS ngày 10/4/2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Thu H, sinh ngày 03 tháng 6 năm 1977; Đăng ký nhân khẩu thường trú: Tổ 7, phường X, quận N, thành phố H; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Bá L và bà Trần Thị T, Có chồng là Đoàn Đức D (Đã ly hôn) và 03 con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bắt tạm giam ngày 25/12/2017 – Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14h30’ ngày 23/12/2017, Nguyễn Thị Thu H đi xe ôm đến khu vực bến xe khách Mỹ Đình, phường Mỹ Đình 2, Nam Từ Liêm, Hà Nội, tại đây, H gặp một đối tượng tên Nam (hiện chưa xác định được) hỏi mua 4.000.000 đồng ma túy. Sau khi mua được ma túy, H mang về nhà chia thành 18 gói nhỏ để mục đích có khách hỏi thì bán. Khoảng 14h30’ ngày 25/12/2017, H nhận được điện thoại của đối tượng Nam hỏi mua 1.000.000 đồng ma túy, H đồng ý bảo Nam đến ngõ 408 đường Xuân Phương, tổ 7, phường Xuân Phương, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội để lấy ma túy.

Đến khoảng 15h 45’ cùng ngày, H cầm theo 01 gói nilon chứa ma túy đá đến 408 đường Xuân Phương, tổ 7, phường Xuân Phương, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội để giao cho đối tượng Nam. Trong lúc H đứng chờ đối tượng Nam để giao ma túy thì bị tổ công tác Công an phường Xuân Phương, Nam Từ Liêm, Hà Nội bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ của Nguyễn Thị Thu H:

- 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa tinh thể màu trắng kích thước 5x4 cm;

- 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 5 màu đen, IMEI 1: 1358536082200644; IMEI 2: 358536082200651, có số điện thoại: 0944460000.

Quá trình khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Thị Thu H tại địa chỉ số nhà 408, ngõ 406 đường Xuân Phương, phường Xuân Phương, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội, cơ quan Công an còn thu giữ:

- 17 túi nilon màu trắng bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng nghi là ma túy.

Bản kết luận giám định số 05 ngày 03 tháng 01 năm 2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận:

- Tinh thể màu trắng bên trong 01 gói nilon là ma túy loại Methamphetamine, trọng lượng 1,019 gam;

- Tinh thể màu trắng bên trong 17 túi nilon đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng trọng lượng 4,098 gam.

Về nguồn gốc số ma túy trên, Nguyễn Thị Thu H khai mua của một người đàn ông không quen biết tên Nam tại khu vực bến xe khách Mỹ Đình, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội, quá trình dẫn giải không xác định được người bán ma túy cho H nên không có căn cứ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 102/CT-VKS ngày 02/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm thì Nguyễn Thị Thu H bị truy tố về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo H khai nhận hành vi của mình, thành khẩn nhận tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quan điểm như cáo trạng truy tố và kết luận bị cáo Nguyễn Thị Thu H đã phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự. Sau khi đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, xem xét tình tiết giảm nhẹ, đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 30 tháng đến 36 tháng tù, xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy ma túy, tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động Nokia5.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm và Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm và kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Căn cứ tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, căn cứ kết quả xét hỏi và tranh tụng tại phiên tòa, có đủ cơ sở kết luận: Hồi 17h30’ ngày 25/12/2017, tại trước cửa số nhà 408, đường Xuân Phương, phường Xuân Phương, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội, Nguyễn Thị Thu H có hành vi cất giấu trong người 1,019 gam ma túy loại Methamphetamine mục đích để bán cho đối tượng Nam thì bị phát hiện bắt giữ. Quá trình khám xét nơi ở của Nguyễn Thị Thu H, cơ quan Công an còn thu giữ 4,098 gam ma túy loại Methamphetamine với mục đích để bán. Hành vi của bị cáo Nguyễn Thị Thu H đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội danh và khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, phù hợp pháp luật.

 [3] Hành vi phạm tội của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền kiểm soát các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng, bị cáo nhận thức được việc bán ma túy cho đối tượng khác là vi phạm pháp luật, nhưng vì lợi nhuận bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Do đó, hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm, áp dụng mức hình phạt tù giam cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới tương xứng với tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, đồng thời mới có tác dụng giáo dục riêng bị cáo cũng như răn đe phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét bị cáo khai báo thành khẩn, thái độ ăn năn hối cải, nhân thân chưa có tiền án tiền sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. So sánh về khối lượng ma túy, thực hiện nguyên tắc có lợi cho bị cáo nên Hội đồng xét xử áp dụng tội danh theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999 đối với bị cáo ( theo Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội).

 [4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên miễn phạt tiền cho bị cáo.

 [5] Về vật chứng vụ án: Số ma túy đã thu giữ cho tịch thu tiêu hủy, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia5 liên quan đến hành vi phạm tội nên tịch thu sung quỹ nhà nước.

 [6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí và có quyền kháng cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: - Khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999; Điều 38; Điều 47; Điểm s khoản 1và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015;

- Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

- Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Thu H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Xử phạt Nguyễn Thị Thu H 32(Ba mƣơi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/12/2017.

* Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong chất ma túy có chữ ký của Nguyễn Thị Thu H và giám định viên; Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động Nokia5 có IMEI 1: 1358536082200644, IMEI 2: 368536082200651.

Theo biên bản giao nhận vật chứng số 94 ngày 02/4/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

* Án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

284
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 97/2018/HS-ST ngày 24/04/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:97/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về