TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 967/2019/HNGĐ-ST NGÀY 05/08/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 05 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 203/2019/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 02 năm 2019 về tranh chấp: “Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 135/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 6 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên toà số 119/2019/QĐST-HNGĐ ngày 17 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:
1/ Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Mai T, sinh năm 1975; địa chỉ: Số 350/118/21 đường N, Phường M, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
2/ Bị đơn: Anh Phan Văn T, sinh năm 1970; địa chỉ: Số 350/118/21 đường N, Phường M, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 18 tháng 2 năm 2019 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Phạm Thị Mai T trình bày:
Chị và anh Phan Văn T chung sống với nhau vào năm 1993 trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường M, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2003 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, không có sự tôn trọng nhau, chị đã vì các con nên nhẫn nhịn, hàn gắn mâu thuẫn nhưng không có kết quả, cuộc sống vợ chồng thật sự không hạnh phúc. Nay chị xác định không còn tình cảm với anh T nên đề nghị Toà giải quyết cho chị được ly hôn.
Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Phan Thị Thảo N, sinh ngày 20/7/1996 (đã trưởng thành) và Phan Thị Thảo A, sinh ngày 09/5/2002. Ly hôn, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu A, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.
* Bị đơn anh Phan Văn T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập đến Toà ghi tự khai nhưng hết thời hạn 15 ngày bị đơn không có ý kiến bằng văn bản và cũng không gửi cho Toà án các tài liệu liên quan đến việc giải quyết vụ án. Đồng thời, Toà án đã tiến hành tống đạt thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải; giấy triệu tập tham gia phiên họp vào các ngày 21/5/2019 và 18/6/2019 nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do.
Theo kết quả xác minh ngày 18/4/2019 tại Công an phường M quận G, Thành phố Hồ Chí Minh thể hiện: Anh Phan Văn T, sinh năm 1970 hiện cư trú tại địa chỉ: Số 350/118/21 đường N, Phường M, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.
Do bị đơn vắng mặt nên Tòa không tiến hành hòa giải được. Vì vậy Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa:
Chị T có đơn đề nghị Tòa đưa vụ án ra xét xử vắng mặt, chị vẫn giữ nguyên yêu cầu đã trình bày trên.
Anh T vắng mặt không lý do. Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai, bị đơn vắng mặt không tham gia phiên tòa nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng, đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung:
- Căn cứ các điều 51, 56, 58, 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
- Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí và lệ phí. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị:
Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn chị Phạm Thị Mai T được ly hôn với anh Phan Văn T. Về con chung: Giao cháu Phan Thị Thảo A, sinh ngày 09/5/2002 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục cho đến tuổi trưởng thành, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh T. Về tài sản chung, nợ chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:
Xét đơn kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xác định đây là quan hệ tranh chấp: “Ly hôn, nuôi con khi ly hôn”. Do bị đơn cư trú tại quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.
[2] Về thủ tục tố tụng:
Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do đó, căn cứ Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn.
Bị đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
[3] Xét yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Căn cứ vào Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 84, quyển số 01/93 do Uỷ ban nhân dân phường M, quận G cấp ngày 06/11/1993 xác định hôn nhân giữa chị T và anh T là quan hệ hôn nhân hợp pháp.
Nguyên nhân chị T xin ly hôn là do bất đồng quan điểm, cả hai không có sự tôn trọng lẫn nhau, cuộc sống vợ chồng thật sự không hạnh phúc. Về phía anh T, mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản nhưng vẫn không đến Tòa để giải quyết những mâu thuẫn, vướng mắc trong cuộc sống vợ chồng. Như vậy chứng tỏ bản thân anh T không quan tâm đến cuộc hôn nhân này nên không có thiện chí hàn gắn, hòa giải cùng chị T đoàn tụ. Tuy kết quả xác minh tại địa phương ngày 18/4/2019 không xác định được mâu thuẫn vợ chồng nhưng biên bản ghi nhận tại địa phương ngày 06/5/2019 anh T trình bày: “Chị T nộp đơn ly hôn là việc của chị, anh không đến Tòa vì mâu thuẫn giữa anh và chị T không thể hòa giải được, anh đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị T”. Từ những phân tích trên cho thấy cuộc sống vợ chồng giữa chị T và anh T hoàn toàn không hạnh phúc, mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng không thể hàn gắn được, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, khả năng đoàn tụ không có. Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử nhận thấy yêu cầu xin ly hôn của chị T là chính đáng, phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.
Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Phan Thị Thảo N, sinh ngày 20/7/1996 (đã trưởng thành) và Phan Thị Thảo A, sinh ngày 09/5/2002; chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục cháu A. Xét thấy, hiện nay cháu đang sinh sống ổn định với chị T, khi tham khảo ý kiến thì cháu cũng muốn sống với mẹ, đồng thời tại biên bản ghi nhận cũng thể hiện anh T không tranh chấp về con chung, tùy theo nguyện vọng của con. Căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử giao cháu A cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục đến tuổi trưởng thành.
Đối với việc cấp dưỡng nuôi con: Chị T không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về tài sản chung, nợ chung: Tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết. Án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Phạm Thị Mai T phải chịu án phí về ly hôn là 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng.
[4] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 4 Điều 147, Điều 266, Điều 271, Điều 273, Điều 278 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ các điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 và Điều 85 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội; Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Mai T được ly hôn với anh Phan Văn T (Giấy chứng nhận kết hôn số 84, quyển số 01/93 do Uỷ ban nhân dân phường M, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 06/11/1993 hết hiệu lực pháp luật).
2. Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Phan Thị Thảo N, sinh ngày 20/7/1996 (đã trưởng thành) và Phan Thị Thảo A, sinh ngày 09/5/2002. Giao cháu A cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục cho đến tuổi trưởng thành. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với anh T cho đến khi chị T có yêu cầu.
Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom mà không ai được cản trở, tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.
Trên cơ sở lợi ích của con, cha, mẹ, người thân thích; cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, hội liên hiệp phụ nữ có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con.
Khi cần thiết đương sự có quyền yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.
4. Án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng chị Phạm Thị Mai T phải chịu, được cấn trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2018/0000138 ngày 26/02/2019 của Chi cục thi hành án dân sự quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. Chị T đã nộp đủ án phí.
Thi hành tại Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền được thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
5. Về quyền kháng cáo:
Các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại địa phương.
Bản án 967/2019/HNGĐ-ST ngày 05/08/2019 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 967/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 05/08/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về