Bản án 96/2021/HS-ST ngày 23/09/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 96/2021/HS-ST NGÀY 23/09/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 23 tháng 9 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 69/2021/TLST-HS ngày 10 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 101/2021/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 8 năm 2021; Thông báo số 380/TB- TA ngày 17/8/2021; Thông báo số 432/TB-TA ngày 07/9/2021 về việc thay đổi lịch xét xử. Đối với các bị cáo:

1. Phạm Việt H, (tên gọi khác: Bi); sinh năm 1996 tại Đồng Nai (có mặt).

Nơi cư trú: Khu 5, thị trấn TP, huyện TP, tỉnh ĐN; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Phật; con ông Phạm Việt H1, sinh năm 1973 và bà Võ Thị Ngọc H2, sinh năm 1977; anh chị em ruột: Không có; bị cáo sống chung như vợ chồng với chị Nguyễn Thị Ngọc H3, sinh năm 1996; chưa có con.

Tiền án, tiền sự: Không Nhân thân:

- Ngày 10/6/2016, bị Công an thành phố Biên Hoà xử phạt 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý.

- Ngày 08/7/2016, bị Toà án nhân dân thành phố Biên Hoà ra Quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 24 tháng. Ngày 06/10/2017 chấp hành xong.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ công an huyện Tân Phú từ ngày 16/3/2021 đến nay.

2. Huỳnh Thế L; sinh năm 1997 tại Đồng Nai (có mặt).

Nơi cư trú: Ấp PT, xã PB, huyện TP, tỉnh ĐN; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Thiên chúa; con ông Huỳnh Văn H4, sinh năm 1958 và bà Trần Thị Chi P, sinh năm 1968; anh chị em ruột: Có 05 người, bị cáo là con thứ tư; Vợ, con: Không có.

Tiền án, tiền sự: Không có.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ công an huyện Tân Phú từ ngày 16/3/2021 đến nay.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Trần Thị Chi P, sinh năm 1968 (có mặt) Địa chỉ: Ấp PT, xã PB, huyện TP, tỉnh ĐN

- Người làm chứng: Anh Trần Quốc C, sinh năm 1997 (vắng mặt) Địa chỉ: Khu 9, thị trấn TP, huyện TP, tỉnh ĐN.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu, có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Việt H và Huỳnh Thế L là bạn bè và là người nghiện ma túy. Do cần tiền để tiêu xài cá nhân và muốn có ma túy sử dụng nên H đã nảy sinh ý định mua ma túy về sử dụng và phân lẻ bán cho các con nghiện. Qua điều tra xác định được bị cáo H đã 02 lần mua ma tuý của đối tượng tên Tr (không rõ nhân thân, lai lịch) ở Khu phố 5, phường TD, thành phố BH, tỉnh ĐN vào ngày 08/3/2021 và ngày 15/3/2021. Cách thức mua bán ma túy của bị cáo H như sau: Khi có nhu cầu sử dụng và bán ma tuý, H lên thành phố BH gặp đối tượng tên Tr để mua ma tuý. Sau khi mua được ma tuý, H về nhà trọ của mình thuộc ấp PT, xã PB, huyện TP cùng bị cáo L phân ma tuý ra thành các gói nhỏ để sử dụng và mang đi bán. H liên lạc với các con nghiện bằng điện thoại Nokia 105 màu xanh và điện thoại Samsung A51 màu xanh dương để hẹn địa điểm giao ma tuý sau đó đưa ma tuý cho L đi giao. H hứa hẹn khi đi giao ma tuý cho H xong thì sẽ cho L cùng sử dụng ma tuý chung, cho tiền và card điện thoại. Quá trình điều tra làm rõ Phạm Việt H đã bán 01 gói ma túy cho Trần Quốc C thu được 200.000 đồng. L khai nhận đã bán ma tuý 02 lần cho đối tượng Q, P (chưa xác minh được nhân thân lai lịch) 02 gói ma tuý mỗi gói giá 200.000 đồng, sau đó được H cho số tiền 100.000 đồng và 04 card điện thoại viettel mệnh giá 50.000 đồng.

Vào khoảng 18 giờ ngày 15/3/2021, Phạm Việt H đi lên thành phố BH để mua ma tuý của đối tượng tên Trg (không rõ nhân thân, lai lịch). Sau khi mua được ma tuý thì H mang về phòng trọ và cùng L phân chia ra thành 21 gói ma tuý nhỏ để bán cho các con nghiện. Sau đó cả hai cùng sử dụng ma tuý tại nhà trọ của H. Đến khoảng 10 giờ ngày 16/3/2021, tại nhà trọ của H thuộc Tổ 5, ấp PT, xã PB, huyện TP, Công an xã PB tiến hành kiểm tra hành chính và phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Phạm Việt H và Huỳnh Thế L đang có hành vi tàng trữ 21 gói nylong được hàn kín, nghi là ma tuý nhằm mục đích mua bán.

Tang vật thu giữ gồm: 21 gói ni lông hàn kín, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, nghi là ma túy; 01 điện thoại di động Samsung A51 màu xanh dương; 01 điện thoại di động điện thoại Nokia 105 màu xanh; 01 điện thoại Nokia 105 màu đen; 01 xe mô tô hiệu Lisohaka biển số 18S6-1081; số tiền 200.000 đồng.

Tại Kết luận giám định số 531/KLGĐ-PC09, ngày 22/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Đồng Nai, kết luận: “Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 2,82238 gam, loại Methamphetamine”. Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 2,78490 gam. Toàn bộ đối tượng sau giám định được hoàn lại trong niêm phong số: 531/KLGĐ-PC09.

Cáo trạng số 72/CT-VKSTP-ĐN ngày 04 tháng 6 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai truy tố các bị cáo Phạm Việt H, Huỳnh Thế L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo Phạm Việt H, Huỳnh Thế L, trên cơ sở đánh giá các dấu hiệu cấu thành tội phạm, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố:

Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Phạm Việt H, Huỳnh Thế L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” Về mức hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt:

- Bị cáo Phạm Việt H từ 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng đến 04 (bốn) năm tù.

- Bị cáo Huỳnh Thế L từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm năm tù.

Về các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì giấy kí hiệu số 531/ KLGĐ-PC09 đã được niêm phong dấu tròn đỏ bên trong đựng ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định; Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại Samsung A51 màu xanh dương, 01 điện thoại Nokia 105 màu xanh vì đây là công cụ dùng vào việc phạm tội.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 200.000 đồng vì đây là tiền thu lợi bất chính từ việc mua bán trái phép chất ma tuý.

Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng truy tố và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tại phiên tòa, các bị cáo không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ nào khác. Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Phú, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Vào lúc 10 giờ, ngày 16/3/2021 tại phòng trọ của Phạm Việt H thuộc Tổ 5, ấp PT, xã PB, công an xã PB phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Phạm Việt H và Huỳnh Thế L vì có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý có khối lượng 2,82238 gam, loại Methamphetamine, nhằm mục đích mua bán. Quá trình điều tra, Phạm Việt H thừa nhận vào ngày 08/3/2021 đã bán cho Trần Quốc C 01 gói ma tuý trị giá 200.000 đồng. Ngoài ra, Phạm Việt H và Huỳnh Thế L khai nhận đã nhiều lần bán ma tuý cho các đối tượng tên Q và P, tuy nhiên quá trình điều tra không làm việc được với các đối tượng trên.

Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai của người tham gia tố tụng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở để kết luận hành vi nêu trên của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát đã viện dẫn và truy tố là có căn cứ và đúng người đúng tội.

[3]. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến sự quản lý của Nhà nước về chất ma túy mà còn gây nguy hại đối với sức khỏe và nhân cách của con người; làm thiệt hại kinh tế của gia đình cũng như xã hội và là một trong những nguyên nhân nảy sinh của các loại tội phạm khác, gây hoang mang lo sợ trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng đến trật tự, trị an tại địa phương. Bản thân các bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, các bị cáo thực hiện với lỗi cố ý. Vì vậy, cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành công dân sống có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời có tác dụng răn đe phòng ngừa chung.

[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Về nhân thân: Bị cáo H có nhân thân xấu; Ngày 10/6/2016 bị Công an thành phố Biên Hoà xử phạt 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý; Ngày 08/7/2016 bị Toà án nhân dân thành phố Biên Hoà ra Quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 24 tháng. Các tình tình tiết này, mặc dù không phải là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhưng Hội đồng xét xử cũng sẽ xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo H.

[5] Về tính chất đồng phạm: Các bị cáo phạm tội trong trường hợp đồng phạm giản đơn. Do đó, khi quyết định hình phạt, áp dụng Điều 58 Bộ luật hình sự để phân hóa hình phạt đối với các bị cáo. Cụ thể như sau: Bị cáo H và L đều tham gia với vai trò là người thực hành. Nhưng bị cáo H là người trực tiếp, đi mua ma túy về để sử dụng đồng thời liên hệ với các con nghiện để bán ma túy. Bị cáo L trực tiếp đi bán ma túy cho các con nghiện và mang tiền bán ma túy về cho bị cáo H nên vai trò của L trong vụ án là thấp hơn bị cáo H. Vì vậy, hình phạt đối với bị cáo L cũng thấp hơn so với bị cáo H.

[6]. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì giấy kí hiệu số 531/ KLGĐ-PC09 đã được niêm phong dấu tròn đỏ bên trong đựng ma túy loại Methamphetamine là vật cấm lưu hành, do đó cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại Samsung A51 màu xanh dương, 01 điện thoại Nokia 105 màu xanh vì đây là công cụ dùng vào việc phạm tội theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 200.000 đồng vì đây là tiền thu lợi bất chính từ việc mua bán trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[7]. Về các vấn đề khác:

- Đối với 01 xe mô tô hiệu LISOHAKA biển số 18S6-1081, Huỳnh Thế L mượn của mẹ là bà Trần Thị Chi P để làm phương tiện đi lại, do đó Cơ quan Điều tra đã trả lại tài sản trên cho chủ sở hữu là phù hợp với quy định của pháp luật nên không xem xét.

- Đối với 01 điện thoại di động Nokia 105 màu đen Cơ quan điều tra đã trả lại cho Phạm Việt H, vì đây là tài sản không liên quan đến việc phạm tội nên không xem xét.

- Đối với Trần Quốc C có hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý, Cơ quan Điều tra Công an huyện Tân Phú đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với hành vi trên là đúng với quy định của pháp luật.

- Đối với các đối tượng Q, P mà Huỳnh Thế L khai đã bán ma tuý, hiện chưa xác minh được nhân thân lai lịch nên khi xác minh được sẽ xử lý sau.

[8]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[10]. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị mức hình phạt đối với các bị cáo phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 251; Điều 17; Điều 46; Điều 47; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật hình sự.

- Khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Việt H và Huỳnh Thế L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1. Xử phạt:

- Bị cáo Phạm Việt H 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù của bị cáo được tính từ ngày 16/3/2021.

- Bị cáo Huỳnh Thế L 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù của bị cáo được tính từ ngày 16/3/2021.

2. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì giấy kí hiệu số 531/ KLGĐ-PC09 đã được niêm phong dấu tròn đỏ bên trong đựng ma túy loại Methamphetamine.

- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng); 01 điện thoại Samsung A51 màu xanh dương; 01 điện thoại Nokia 105 màu xanh.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 07/6/2021 và Biên lai thu tiền số 002024 ngày 07/6/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phú).

3.Về án phí: Buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4.Về quyền kháng cáo: Các bị cáo; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

111
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 96/2021/HS-ST ngày 23/09/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:96/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về