Bản án 96/2020/HS-ST ngày 11/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 96/2020/HS-ST NGÀY 11/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 8 năm 2020 tại phòng xử án-trụ sở Tòa án nhân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 89/2020/TLST-HS ngày 13 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:135/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 7 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Trần Đức D, tên gọi khác: không; sinh ngày 08 tháng 10 năm 1994, tại Đ.

Nơi cư trú: tổ 5, ấp 2, xã T, huyện Đ, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 08/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Công giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn H và bà Nguyễn Thị M; Chưa có vợ con; Anh, chị em: có 02 người, bị cáo là con lớn nhất trong gia đình.

Tiền sự: Không:

Tiền án: Ngày 25/9/2014, Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Đ xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo bản án số 113/2014/HSST, thời hạn tù tính từ ngày 27/3/2014, chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/11/2019 (BL.67).

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 27 tháng 02 năm 2020. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

-Người bào chữa cho bị cáo: Không có 2. Trần Thanh Đ, tên gọi khác: không; sinh ngày 07 tháng 7 năm 1986, tại Tp H.

 Nơi cư trú: 215 Hoàng Diệu 2, Khu phố 3, phường L, quận T, Thành phố:

 Nghề nghiệp: Tài xế; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn N và bà Phạm Thị D; Chưa có vợ con; Anh, chị em: có 02 người, bị cáo là con lớn nhất trong gia đình.

Tiền sự: Không:

Tiền án: Ngày 04/9/2014, Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo bản án số 542/2014/HSST, thời hạn tù tính từ ngày 05/3/2014, chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/01/2020 (BL.95).

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 27 tháng 02 năm 2020. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

-Người bào chữa cho bị cáo: Không có -Người tham gia tố tụng khác: Không có

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Trần Đức D và Trần Thanh Đ bị Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào lúc 21 giờ 10 ngày 26/02/2020, Tổ tuần tra 363 - Công an quận Bình Thạnh tuần tra đến trước nhà số 192 Nguyễn Gia Trí, phường 25, quận Bình Thạnh, phát hiện Trần Thanh Đ đang điều khiển xe máy hiệu Honda Vision mang biển số 59X2-598.47 chở Trần Đức D có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe đưa về trụ sở Công an phường 25, quận Bình Thạnh để kiểm tra.Qua kiểm tra, phát hiện thu giữ:

- Trong túi đeo chéo hoa văn caro màu xám đen Trần Đức D đang đeo trên người có 01 vỏ gói bao thuốc lá hiệu “Jet” đựng 02 gói nylon chứa tinh thể rắn không màu, trong túi quần phía trước bên phải D đang mặc có 01 bóp da màu đen, bên trong có 01 gói nylon màu xanh đựng 01 gói nylon chứa tinh thể rắn không màu, D khai là đều ma túy tổng hợp.

- Trong túi quần phía trước bên phải Trần Thanh Đ đang mặc, có 01 bóp màu nâu, bên trong có 01 nỏ thủy tinh và 01 gói nylon chứa tinh thể rắn không màu, Đ khai là ma túy tổng hợp.

Nên Công an phường 25, quận Bình Thạnh lập biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồ sơ xử lý.

Tại Cơ quan điều tra - Công an quận Bình Thạnh, Trần Đức D và Trần Thanh Đ đã khai nhận hành vi phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy của mình, mục đích cất giấu để sử dụng cho bản thân, không nhằm mục đích gì khác.

Quá trình điều tra được biết: Trần Đức D và Trần Thanh Đ quen biết nhau từ năm 2014 khi đang chấp hành án tại Trại giam Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, sau khi chấp hành án xong, D và Đ vẫn thường xuyên liệc lạc với nhau. Thông qua bạn bè ngoài xã hội giới thiệu cho D biết và thường mua ma túy của đối tượng tên Hoa (không rõ lai lịch) tại khu vực đường Phan Văn Hớn, huyện Hóc Môn. Khi cần mua ma túy thì D gọi điện thoại cho Hoa, thỏa thuận giá cả rồi Hoa hẹn địa điểm và đến gặp trực tiếp giao dịch. Trần Đức D đã mua ma túy của Hoa được 02 lần cụ thể:

Ngày 24/02/2020, Trần Đức D gọi điện thoại mua của Hoa (không rõ lai lich) 1.000.000 đồng ma túy “đá”, Hoa đồng ý bán và hẹn giao dịch trên đường Phan Văn Hớn, huyện Hóc Môn. Sau khi nhận ma túy, D đã sử dụng một ít, tới chiều ngày 24/02/2020, Duy gặp Trần Thanh Đ tại một quán cà phê quận Thủ Đức (không rõ địa chỉ) D lấy số ma túy mua của bà Hoa ra cho Đ một ít ma túy để Đ sử dụng, Đ cất vào bóp để sử dụng (là số ma túy công an thu giữ), số ma túy còn lại D bỏ vào trong bóp da màu đen cất giấu để sử dụng dần.

Ngày 26/02/2020,Trần Đức D tiếp tục liên lạc với Hoa (không rõ lai lịch) để hỏi mua 5.000.000đ ma túy “đá”, D thỏa thuận với Hoa sẽ trả trước 2.500.000 đồng, số tiền còn lại D sẽ trả sau, Hoa đồng ý bán và hẹn giao dịch trên đường Phan Văn Hớn, huyện Hóc Môn nhưng khi đến địa điểm nhận ma túy thì có người nam thanh niên (chưa rõ lai lịch) giúp Hoa giao ma túy, đưa cho D một vỏ gói thuốc lá hiệu “Jet” bên trong đựng 02 gói ma túy “đá”. D nhận ma túy và cất vào trong túi đeo chéo hoa văn caro màu xám đen của D. Sau đó, D đến ngã tư Thủ Đức gặp Đ, D nhờ Đạt chở ra bến xe Miền Đông để D đón xe về Đồng Nai, khi Đ chở D đi đến trước nhà số 192 Nguyễn Gia Trí, phường 25, quận Bình Thạnh thì bị Tổ tuần tra 363 - Công an quận Bình Thạnh bắt quả tang như đã nêu trên. Việc Trần Đức D mua và cất giấu số ma túy trong túi đeo, Trần Thanh Đ không biết cũng không tham gia. Số ma túy Trần Đức D cho Trần Thanh Đ để sử dụng, D không lấy tiền hay lợi ích gì của Đạt.

Căn cứ Kết luận giám định số 375/KLGĐ-H ngày 05/3/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hồ Chí Minh:

- Gói 1: Tinh thể không màu trong 02 gói nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Trần Đức D và hình dấu công an phường 25, quận Bình Thạnh, cần giám định đều là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 9,7450g, loại Methaphetamine:

- Gói 2: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon (để trong 01 gói nylon màu xanh) được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Trần Đức D và hình dấu công an phường 25, quận Bình Thạnh, cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,4678g, loại Methaphetamine:

- Gói 3: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Trần Thanh Đ và hình dấu công an phường 25, quận Bình Thạnh, cần giám định, là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,9937g, loại Methaphetamine (BL.44).

Vật chứng:

- 03 gói niêm phong bên ngoài có ghi số vụ 375/20 Bình Thạnh cùng các chữ ký ghi tên của Giám định viên Bùi Công Danh và Cán bộ Trần Thu Hằng, bên trong là mẫu vật còn lại sau khi đã sử dụng phục vụ giám định:

+ Gói 1: Tinh thể không màu có khối lượng 9,4514g:

+ Gói 2: Tinh thể không màu có khối lượng 0,3367g:

+ Gói 3: Tinh thể không màu có khối lượng 0,8519g:

 - 01 vỏ gói bao thuốc lá hiệu “Jet”; 01 bóp da màu đen; 01 túi đeo chéo hoa văn caro màu xám đen; 01 bóp màu nâu; 01 nỏ thủy tinh dùng để sử dụng ma túy đá:

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu vàng đồng thu của Duy dùng để liên lạc mua ma túy:

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xám và 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng thu của Đạt:

- 01 xe mô tô hiệu Honda Vision biển số 59X2-598.47, giám định số khung, số máy không thay đổi, qua xác minh chiếc xe trên do bà Phạm Thị D, ngụ tại 215 Hoàng Diệu 2, khu phố 3, phường L, quận T, là mẹ ruột của Trần Thanh Đ đứng tên đăng ký xe. Ngày 26/02/2020, Đạt mược xe bà D đi công việc, bà D không biết Đ dùng vào việc phạm tội nên Cơ quan điều tra - Công an quận Bình Thạnh đã trả xe lại cho bà D đúng theo quy định của pháp luật (BL.118).

Tại bản cáo trạng số 87/CT-VKS BTH ngày 08 tháng 7 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh, đã truy tố bị can Trần Đức D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g, o Khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; truy tố bị can Trần Thanh Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 Tại phiên tòa, Bị cáo Trần Đức D và bị cáo Trần Thanh Đ khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng nêu. Hai bị cáo thống nhất với tội danh và khung hình phạt như cáo trạng đã nêu, thừa nhận việc truy tố là đúng người, đúng tội, không oan sai.

Sau khi kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh trình bày bản luận tội giữ nguyên quan điểm như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: tuyên bị cáo Trần Đức D và bị cáo Trần Thanh Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”:

+ Áp dụng điểm g, o Khoản 2 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51, xử phạt bị cáo Trần Đức D từ 07 đến 08 năm tù giam. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

+ Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51: điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Thanh Đ từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù giam. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

+ Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, xử lý theo quy định pháp luật.

.Tịch thu và tiêu hủy: 11,2065g ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine:

.Tịch thu và tiêu hủy: 01 vỏ gói bao thuốc lá hiệu “Jet”; 01 bóp da màu đen:

01 túi đeo chéo hoa văn caro màu xám đen; 01 bóp màu nâu; 01 nỏ thủy tinh:

.Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu vàng đồng thu của D :

.Trả lại cho bị cáo Trần Thanh Đ 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xám và 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng.

-Trong phần tranh luận các bị cáo không tranh luận.

-Trong lời nói sau cùng, bị cáo D xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm trở về gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Bình Thạnh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, tuy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Về tội danh:

Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo Trần Đức Duy, bị cáo Trần Thanh Đạt tại cơ quan điều tra, cũng như tại phiên tòa hôm nay, qua xét hỏi bị cáo Trần Đức Duy, bị cáo Trần Thanh Đạt đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh đã truy tố đối với bị cáo. Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo Trần Đức D, bị cáo Trần Thanh Đ tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra thu thập được có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận: Vào lúc 21 giờ 10 ngày 26/02/2020, tại trước nhà số 192 Nguyễn Gia Trí, phường 25, quận Bình Thạnh, Trần Thanh Đ đang có hành vi tàng trữ 0,9937g ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng cho bản thân và Trần Đức D đang có hành vi tàng trữ 10,2128g, ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị Tổ tuần tra 363-Công an quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Căn cứ Kết luận giám định số 375/KLGĐ-H ngày 05/3/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hồ Chí Minh: kết luận toàn bộ mẫu giám định đều là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 11,2065g, loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trần Đức D và Trần Thanh Đ đã khai nhận hành vi phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy của mình, mục đích cất giấu để sử dụng cho bản thân, không nhằm mục đích gì khác đúng như nội dung bản cáo trạng đã tuy tố.

Với hành vi như đã nêu trên của bị cáo Trần Đức D, bị cáo Trần Thanh Đ, xét thấy cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh truy tố bị cáo Trần Đức D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g, o Khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; bị cáo Trần Thanh Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 là có cơ sở pháp lý, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách hiệm hình sự:

[3.1] Xét tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng. Các bị cáo là người đã thành niên, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đủ nhận thức để nhận biết được tác hại của ma túy gây ra cho bản thân, gia đình và xã hội nhưng vẫn cố ý phạm tội, bị cáo đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, đây là hành vi mà pháp luật nghiêm cấm. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, không những gây ảnh hưởng đến trật tự trị an, đến sức khỏe của con người, làm lây lan tệ nạn nghiệp ngập ma túy trong xã hội mà còn gây khó khăn trong việc phòng chống các tội phạm về ma túy và các tệ nạn khác. Do đó, cần xử phạt các bị cáo một mức án nhằm giáo dục bị cáo trở thành người tốt cho xã hội, chấp hành pháp luật, đồng thời giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

[3.2] Khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo thấy: Bị cáo Trần Đức D, Trần Thanh Đ chưa có tiền sự, cả hai bị cáo đều có 01 tiền án xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích, mà tiếp tục phạm tội, điều này thể hiện ý thức coi thường pháp luật của các bị cáo. Bị cáo Đ phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm nên phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, cần có một mức án nghiêm khắc đối với bị cáo Trần Đức D, Trần Thanh Đ. Tuy nhiên, tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo Trần Đức D, Trần Thanh Đ đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên các bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử giảm nhẹ cho bị cáo Trần Đức D, Trần Thanh Đ một phần hình phạt.

[3.3] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có việc làm ổn định, hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106, Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

- Số ma túy ở thể rắn, đã thu giữ 11.2065g(Gói 1: Tinh thể không màu có khối lượng 9,4514g; Gói 2: Tinh thể không màu có khối lượng 0,3367g; Gói 3: Tinh thể không màu có khối lượng 0,8519g, loại Methamphetamine) là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu và tiêu hủy.

- 01 vỏ gói bao thuốc lá hiệu “Jet”; 01 bóp da màu đen; 01 túi đeo chéo hoa văn caro màu xám đen; 01 bóp màu nâu; 01 nỏ thủy tinh các bị cáo dùng vào việc phạm tội, không có gía trị nên tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu vàng đồng thu của D bị cáo dùng vào việc phạm tội (để liên lạc mua ma túy), không có giá trị sử dụng, nên tịch thu và tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xám và 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng thu của Đ, không dùng vào việc phạm tội, nên trả lại cho bị cáo.

- 01 xe mô tô hiệu Honda Vision biển số 59X2-598.47, Cơ quan điều tra - Công an quận Bình Thạnh đã trả xe lại cho bà D đúng theo quy định của pháp luật, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với đối tượng là người phụ nữ tên Hoa (chưa rõ lai lịch) là người bán ma túy và người thanh niên (chưa rõ lai lịch) giao ma túy cho Trần Đức D, Cơ quan điều tra - Công an quận Bình Thạnh đang tiến hành xác minh nhân thân, khi nào làm rõ sẽ đề nghị xử lý sau.

[5] Về án phí: Bị cáo Trần Đức D và bị cáo Trần Thanh Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, mỗi bị cáo phải đóng 200.000 đồng theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Đức D, Trần Thanh Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

2.1. Căn cứ điểm g, o Khoản 2 Điều 249; Điều 38; điểm s Khoản 1 Điều 51, điểm a Khoản 2 Điều 53 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Đức D 07 ( bảy ) năm tù giam.

Thời hạn tù tính từ ngày 26 tháng 02 năm 2020.

Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự tiếp tục tạm giám bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2.2. Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s Khoản 1 Điều 51, điểm h Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Thanh Đ 03 (ba) năm tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 26 tháng 02 năm 2020.

Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự tiếp tục tạm giám bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3. Về vật chứng:

Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106, Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

- Tịch thu và tiêu hủy: 11,2065g ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine:

- Tịch thu và tiêu hủy: 01 vỏ gói bao thuốc lá hiệu “Jet”; 01 bóp da màu đen:

01 túi đeo chéo hoa văn caro màu xám đen; 01 bóp màu nâu; 01 nỏ thủy tinh:

 - Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu vàng đồng thu của D:

- Trả lại cho bị cáo Trần Thanh Đ 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xám và 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 07 tháng 7 năm 2020 giữa Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Thạnh với Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bình Thạnh)

4. Về án phí  :

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án Bị cáo Trần Đức D phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Trần Thanh Đ phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo Bị cáo Trần Đức D, bị cáo Trần Thanh Đ được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 96/2020/HS-ST ngày 11/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:96/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về