Bản án 96/2020/HNGĐ-ST ngày 30/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 96/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 316/2020/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 7 năm 2020 về việc “Ly hôn và tranh chấp nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 74/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 50/2020/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 9 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyen Thi Thanh H, sinh năm 1997; địa chỉ: số A, đường B, Tổ C, Khu phố D, phường TH, thành phố T, tỉnh Bình Dương, có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Ông Nguyen Hưu T, sinh năm 1994; địa chỉ: số X, đường Y, Tổ z, Khu phố K, phường TH, thành phố T, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 23/6/2020, quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Nguyen Thi Thanh H trình bày:

Bà Nguyen Thi Thanh H và ông Nguyen Huu T kết hôn năm 2015 có đăng ký kết hôn tại UBND phường TH, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Sau khi kết hôn bà H và ông T sống hạnh phúc được khoảng 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn do ông T không đi làm chỉ lo chơi bời và đánh bạc một mình bà phải lo cho con, hai vợ chồng thường hay xảy ra cãi nhau về vấn đề tiền bạc. Bà H đã nhiều lần khuyên ông T thay đổi để làm ăn lo cho con nhưng ông T không thay đổi. Đến năm 2018, bà H và ông T ly thân, vợ chồng nhiều lần tìm cách giải quyết mâu thuẫn nhưng vẫn không hàn gắn được. Hiện nay tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không có hạnh phúc nên bà H yêu cầu được ly hôn với ông Nguyen Huu T. Bà H và ông T có 01 con chung tên Nguyen Thi Huong V, sinh ngày 20/01/2015. Bà H yêu cầu được nuôi dưỡng cháu V, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung. Tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là ông Nguyen Huu T: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông T không đến Tòa án tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng không gửi văn bản nêu ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà H.

Tại phiên tòa,

- Nguyên đơn bà Nguyen Thi Thanh H có đơn xin giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn ông Nguyen Huu T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ 2 nhưng vắng mặt không có lý do.

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

+ Về tuân theo pháp luật tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến khi khai mạc phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Thư ký đã tiến hành tố tụng đúng quy định của pháp luật, nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định pháp luật; bị đơn ông Nguyen Huu T không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ thẩm quyền theo quy định. Do nguyên đơn có đơn xin giải quyết vắng mặt; bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng là đúng theo quy định tại các điều 227, 228, 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Kiểm sát viên không kiến nghị khắc phục gì thêm.

+ Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 của Luật hôn nhân và Gia đình năm 2014, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật: Ngày 23/6/2020, bà Nguyen Thi Thanh H có đơn khởi kiện về việc xin ly hôn và tranh chấp về nuôi con với ông Nguyen Huu T nên đây là vụ án “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại Điều 51, Điều 53 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2]. Về thẩm quyền: Bị đơn ông Nguyen Huu T sinh sống và có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa chỉ số X, đường Y, Tổ Z, Khu phố K, phường TH, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

[1.3] Về việc tham gia phiên tòa của đương sự: Tòa án đã tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và các giấy triệu tập tham gia phiên tòa cho bị đơn là ông Nguyen Huu T theo đúng quy định của pháp luật nhưng ông T vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Nguyên đơn bà Nguyen Thi Thanh H có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt. Vì vậy, căn cứ vào khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một tiến hành xét xử vụ án vắng mặt tất cả các đương sự.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyen Thi Thanh H và ông Nguyen Huu T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường TH, thành phố T, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận kết hôn số 22, quyển số 02/2015 ngày 25/3/2015 nên quan hệ hôn nhân giữa ông T và bà H là hợp pháp theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Bà H trình bày: Quá trình chung sống, bà và ông T xảy ra mâu thuẫn do ông T không đi làm chỉ lo chơi bời và đánh bạc. Bà H đã nhiều lần khuyên ông T thay đổi để làm ăn lo cho con nhưng ông T không thay đổi. Đến năm 2018, bà H và ông T ly thân, vợ chồng đã nhiều lần tìm cách giải quyết mâu thuẫn nhưng vẫn không hàn gắn được. Bà xác định tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không có hạnh phúc nên bà H yêu cầu được ly hôn với ông T. Qua xác minh tại nơi cư trú của ông T và bà H thể hiện: hiện nay ông T và bà H không còn sống chung với nhau. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông T nhiều lần đến Tòa án để tiến hành hòa giải đoàn tụ gia đình nhưng ông T vẫn cố tình vắng mặt, điều này chứng tỏ ông T không có T chí mong muốn gia đình được đoàn tụ.

Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định, hôn nhân giữa bà H và ông T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H về việc ly hôn với ông T.

[2.2] Về con chung: Bà Nguyen Thi Thanh H và ông Nguyen Huu T có một con chung là cháu Nguyen Thi Huong V, sinh ngày 20/01/2015. Xét thấy cháu V còn nhỏ, hiện đang sinh sống cùng với bà H và là con gái cần sự chăm sóc của mẹ, bà H có thu nhập ổn định nên giao cháu V cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với quy định tại Điều 81 và Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà Nguyen Thi Thanh H không yêu cầu ông Nguyen Huu T cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyen Thi Thanh H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Từ những nhận định trên, xét thấy có căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyen Thi Thanh H đối với bị đơn ông Nguyen Huu T.

[3] Xét thấy, quan điểm giải quyết vụ án của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[4] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bà Nguyen Thi Thanh H phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000đ (ba trăm ngàn đồng); ông Nguyen Huu T không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, các Khoản 4 Điều 147, Khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 235, Khoản 1 Điều 238, Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 55, 57, 58, 59, 81, 82, 83, 84, 116 và Điều 117 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyen Thi Thanh H đối với ông Nguyen Huu T về việc ly hôn và tranh chấp nuôi con.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyen Thi Thanh H được ly hôn với ông Nguyen Huu T.

- Về con chung: Giao cháu Nguyen Thi Huong V, sinh ngày 20/01/2015 cho bà Nguyen Thi Thanh H trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục.

- Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con: Không đặt ra do đương sự không yêu cầu.

Người không trực tiếp nuôi con được quyền đi lại thăm nom con chung mà không ai có quyền cản trở. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng quyền thăm nom con để gây khó khăn, cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con của người trực tiếp nuôi dưỡng con thì người trực tiếp nuôi dưỡng con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con chung đối với người không trực tiếp nuôi dưỡng theo quy định tại khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Vì quyền và lợi ích hợp pháp của con chung là cháu Nguyen Thi Huong V, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con khi có yêu cầu.

- Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

2. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Nguyen Thi Thanh H phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0050150 ngày 03/7/2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

3. Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 96/2020/HNGĐ-ST ngày 30/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:96/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về