Bản án 96/2019/HNGĐ-ST ngày 19/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 96/2019/HNGĐ-ST NGÀY 19/06/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 19 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 37/2019/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 2 năm 2019 về việc “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Đinh Hữu P, sinh năm 1984.

Địa chỉ: Thôn PD, xã QT, huyện QS, tỉnh Quảng Nam.

2. Bị đơn: Chị Đoàn Thị D, sinh năm 1983.

Địa chỉ: Thôn N, xã PT, huyện QS, tỉnh Quảng Nam. Tất cả có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 22/01/2019, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn - anh P trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị D tự nguyện kết hôn, được Ủy ban nhân dân xã Quế Thuận, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam cấp giấy chứng nhận kết hôn số 31 ngày 02/5/2008. Trong quá trình chung sống đã xảy ra mâu thuẫn, tình cảm vợ chồng không còn, tình trạng hôn nhân không thể kéo dài, vợ chồng đã sống ly thân 04 năm nay nên anh yêu cầu được ly hôn.

Về con chung: Có 02 cháu tên là Đinh Gia B, sinh ngày 17/8/2012 và Đinh Thị Bảo N, sinh ngày 01/11/2008. Anh yêu cầu được nuôi dưỡng cháu N và giao cháu B cho chị D nuôi dưỡng. Từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay, cháu N vẫn ở với anh. Anh không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Không có. Anh P không trình bày và yêu cầu gì thêm.

Tại bản tự khai, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bị đơn - chị D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị thống nhất với lời trình bày của anh P về thời gian, điều kiện kết hôn. Trong quá trình chung sống, anh P không lo lắng cho vợ con, ăn nhậu bê tha, đánh đập chị. Chị đã nhiều lần khuyên can nhưng anh P vẫn chứng nào tật nấy. Anh P thích làm chuyện gì thì làm mà không quan tâm đến vợ. Chị và anh P đã sống ly thân được 03 năm. Chị không thống nhất ly hôn vì các con còn nhỏ nên mong muốn được đoàn tụ để nuôi dạy con nên người.

Về con chung: Có 02 cháu tên là Đinh Gia B, sinh ngày 17/8/2012 và Đinh Thị Bảo N, sinh ngày 01/11/2008. Nếu ly hôn thì chị yêu cầu được nuôi cả hai con và không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay, cháu B đang ở với chị.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có. Chị D không trình bày và yêu cầu gì thêm.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình, xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về quan hệ hôn nhân: Anh P được ly hôn với chị D; về con chung: Giao cháu Đinh Thị Bảo N, sinh ngày 01/11/2008 cho anh Đinh Hữu P trực tiếp nuôi dưỡng và giao cháu Đinh Gia B, sinh ngày 17/8/2012 cho chị Đoàn Thị D trực tiếp nuôi dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nơi cư trú của chị D tại thôn N, xã PT, huyện QS, tỉnh Quảng Nam; anh P yêu cầu ly hôn và nuôi con nên quan hệ pháp luật giải quyết là “ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quế Sơn theo khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Anh P và chị D tự nguyện kết hôn, được Uỷ ban nhân dân xã Quế Thuận, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 31 ngày 02/5/2008 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Sau khi kết hôn, anh P và chị D sống không hạnh phúc. Về nguyên nhân mâu thuẫn, theo anh P là do tình cảm vợ chồng không còn; theo chị D là do anh P không có trách nhiệm với vợ con, ăn nhậu bê tha, đánh đập chị. Tại biên bản xác minh ngày 05/3/2019, UBND xã Quế Thuận cung cấp: “Anh P và chị D trong quá trình sinh sống tại địa phương có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do vấn đề về kinh tế. Hiện nay, anh P và chị D đã sống ly thân được 02 năm, chị D về nhà cha mẹ đẻ tại xã Phú Thọ sinh sống”. Tại phiên tòa, anh P và chị D thừa nhận vợ chồng đã sống ly thân được 03 đến 04 năm; anh P cương quyết ly hôn, chị D thừa nhận vợ chồng không còn quan tâm đến nhau, tình cảm vợ chồng không còn. Điều này thể hiện mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh P.

[3]. Về con chung: Anh P yêu cầu được nuôi cháu N, chị D yêu cầu được nuôi cả hai cháu N và B. Tại biên bản xác minh ngày 05/3/2019, UBND xã Quế Thuận cung cấp: “Anh P và chị D đều có thu nhập ổn định và đảm bảo điều kiện nuôi dưỡng con”. Tại biên bản ghi lời khai ngày 08/5/2019, cháu B thể hiện nguyện vọng được ở với chị D. Tại bản tự khai ngày 10/5/2019, cháu N thể hiện nguyện vọng được ở với anh P. Thực tế, anh P và chị D đã không chung sống cùng nhau và anh P nuôi dưỡng cháu N, chị D nuôi dưỡng cháu B từ khi sống ly thân đến nay. Vì vậy, để tránh sự xáo trộn về chổ ở cũng như học tập và đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của các cháu, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình, xử: giao cháu N cho anh P và giao cháu B cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên.

Các đương sự không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4]. Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về nợ chung: Không có.

[6]. Về án phí: Anh P phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 và Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và

Gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Đinh Hữu P về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con".

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Đinh Hữu P và chị Đoàn Thị D.

2. Về con chung: Giao cháu Đinh Thị Bảo N, sinh ngày 01/11/2008 cho anh Đinh Hữu P trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi). Giao cháu Đinh Gia B, sinh ngày 17/8/2012 cho chị Đoàn Thị D trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi). Anh P, chị D không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh P, chị D có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai có quyền cản trở. Các đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng anh Đinh Hữu P phải chịu, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng mà anh P đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006949 ngày 26 tháng 2 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

4. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (19-6-2019), đương sự không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 96/2019/HNGĐ-ST ngày 19/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:96/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Sơn - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về