Bản án 96/2018/HS-ST ngày 21/09/2018 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 96/2018/HS-ST NGÀY 21/09/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 17 và ngày 21 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 85/2018/TLST-HS ngày 16 tháng 7 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 92/2018/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 9 năm 2018, đối với các bị cáo:

Võ Văn T, sinh năm 1985 tại Sóc Trăng; thường trú: Ấp N, xã L, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng; tạm trú: Nhà trọ T, khu phố C, phường T, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn Đ, sinh năm 1932 và bà Lê Thị T, sinh năm 1936; bị cáo có vợ Nguyễn Thị Mỹ L, sinh năm 1985 và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo hiện tại ngoại; có mặt.

Thạch Q, sinh ngày 01 tháng 01 năm 2000 tại Sóc Trăng; thường trú: Ấp Đ xã V, huyện T, tỉnh Sóc Trăng; tạm trú: Nhà trọ H, phòng trọ số 86, khu phố K, phường K, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Khơme; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Thạch Q, sinh năm 1972 và bà Thạch Thị S, sinh năm 1976; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo hiện tại ngoại; có mặt.

- Bị hại: Ông Trần Hoàng A, sinh năm 1997; địa chỉ: Khu phố C, phường T, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, vắng mặt

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Thị T, sinh năm 1936; địa chỉ: Ấp N, xã L, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Võ Văn T, Thạch Q và H (không rõ nhân thân) có mối quan hệ bạn bè với nhau. Khoảng năm 2016 đến đầu tháng 10/2017, T thuê ở nhà trọ T cạnh phòng trọ ông Trần Hoàng A.

Khoảng đầu tháng 10/2017, T cùng các bạn tổ chức uống rượu bia tại phòng trọ, T có mượn xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter của một người bạn để chạy thử trong khu nhà trọ, gây ồn ào nên ông A có đi ra nhắc nhở T, thì giữa T và ông A xảy ra mâu thuẩn cãi vã với nhau, sau khi giữa T và ông A xảy ra sự việc trên thì khoảng 02-03 ngày sau T đã chuyển đi nơi khác thuê nhà trọ. Khoảng 09 giờ ngày 29/10/2017, T tổ chức uống rượu bia cùng một số người bạn ở phòng trọ của T, đến khoảng 15 giờ cùng ngày, mọi người ra về còn lại Thạch Q và H, lúc này T nói sự việc giữa T và ông A mâu thuẫn từ trước cho Q và H nghe, đồng thời rủ Q và H đi tìm ông A để đánh, thì Q và H đồng ý. Sau đó, T lên gác phòng trọ lấy hai con dao mã tấu dài khoảng 60cm (Loại dao tự chế), đưa cho Q một con dao, T cầm một con dao, rồi T và Q giấu dao mã tấu trong người còn H điều khiển xe môtô nhãn hiệu Honda Future màu đỏ của H (không rõ biển số) chở đi về hướng phòng trọ của ông A, khoảng 16 giờ 10 phút cùng ngày, H điều khiển xe mô tô chở T và Q đến đầu đường hẻm vào khu nhà trọ T thì dừng lại bên lề đường DT 747, còn T và Q đi bộ vào phòng trọ ông A, khi T và Q đi vào gần đến phòng trọ ông A thì bà Võ Thị Kim V là vợ ông A đang đứng trước cửa phòng trọ, còn ông A cách chỗ chị V đứng khoảng 2,5 mét đang đứng cho gà ăn, khi T lấy dao giấu trong người ra và Q cũng đang đứng cách T khoảng 01 mét trên tay Q cũng đang cầm dao, thì bà V nhìn thấy tri hô, ông A nghe bà V tri hô nên quay người lại nhìn thấy tay phải T cầm dao chém về hướng ông A, nên ông A lấy một cây tre dài khoảng 02 mét dùng để làm sào phơi quần áo, để chống đỡ và đánh trả lại T, lúc này bà Thạch Thị S cạnh phòng trọ ông A nhìn thấy nên cùng bà V tri hô. T dùng dao mã tấu chém khoảng 4-5 cái trúng vào bàn tay phải của ông T gây thương tích, thấy ông A tay bị chảy máu nên T lùi người lại và bỏ chạy ra khỏi phòng trọ, lúc này Q từ phía sau Tâm tiếp tục xông đến dùng tay phải cầm dao mã tấu vung lên chém về hướng ông A khoảng 10 cái nhưng do ông A dùng cây tre chống đỡ lại nên không trúng vào người, đồng thời lúc này bà S và bà V tri hô nên T kêu Q bỏ chạy ra hướng đường H đang chờ, T và Q lên xe H chở chạy đi về hướng phòng trọ của T chạy thoát, còn ông Trần Hoàng A được người thân đưa đi đến Bệnh viện Chấn thương chỉnh hình thành phố Hồ Chí Minh để cấp cứu và điều trị vết thương. Riêng T và Q sau khi gây thương tích cho ông A, thì H chở về phòng trọ của T, sau đó sợ bị phát hiện nên H chở T và Q đến khu vực cầu Thạnh Hội trốn. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, T bảo mang hai con dao đi giấu nên H chở T và Q cùng hai con dao chạy về hướng gần khu vực Công ty Chí Hùng thuộc phường Thái Hòa, thị xã Tân Uyên, thì Q và T đứng ngoài còn H mang hai con dao giấu đâu không rõ.

Đến ngày 03/11/2017, ông Trần Hoàng A đến công an phường Thạnh Phước để trình báo vụ việc nêu trên, sau khi tiếp nhận tin báo công an phường Thạnh Phước xác lập hồ sơ và chuyển giao Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương thụ lý theo thẩm quyền. Công an thị xã Tân Uyên tiến hành thu giữ vật chứng không thành đối với con dao mã tấu Tâm gây thương tích cho ông A, đồng thời tạm giữ đồ vật, tài liệu gồm:

- 01 cây tre hình tròn, dài 80 cm;

- 01 chứng minh nhân dân mang tên Võ Văn T;

- 01 chứng minh nhân dân mang tên Thạch Q;

Ngày 23/01/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 70/QĐ trưng cầu Trung tâm pháp y tỉnh Bình Dương giám định tỷ lệ thương tật của bị hại Trần Hoàng A; Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 60/2018/GĐPY ngày 27/02/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Bình Dương xác định thương tích hiện tại của Trần Hoàng A như sau: Vết thương đứt gần lìa ngón 4,5 bàn tay phải: vết thương ngón 4 kích thước 4,5 x 0,2 cm, vết thương ngón 5 kích thước 3 x 0,2 cm, đứt gân duỗi nón 4,5 + gân gấp ngón 5, gãy ngón 4,5 đã phẩu khâu nối gân+ kết hợp xương, sẹo lành. Di chứng: cứng các khớp liên đốt ngón 4,5. Kết luận tỷ lệ thương tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại đối với bị hại Trần Hoàng A là 12% (Mười hai phần trăm).

Về trách nhiệm dân sự: Bà Lê Thị T là mẹ ruột Võ Văn T và T đã bồi thường chi phí tiền cấp cứu, chi phí phẩu thuật, tiền thuốc điều trị cho ông Trần Hoàng A với số tiền là 22.500.000 đồng (Hai mươi hai triệu năm trăm ngàn đồng). Ông A có đơn bãi nại và không yêu cầu gì khác về mặt dân sự.

Cáo trạng số: 86/CT-VKSTU ngày 13-7-2018, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố bị cáo Võ Văn T về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự và truy tố bị cáo Thạch Q về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 và chương XII của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình phạt và điều luật áp dụng:

Tuyên bố bị cáo Võ Văn T phạm tội Cố ý gây thương tích, áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Võ Văn T mức án từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

Tuyên bố bị cáo Thạch Q phạm tội Cố ý gây thương tích, áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 58 sửa đổi bổ sung năm 2017 và chương XII của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Thạch Q mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu gì khác nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng các điều 46, 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) cây tre hình tròn, dài 80 cm; trả lại cho bị cáo Võ Văn T 01 (một) chứng minh nhân dân mang tên Võ Văn Tâm; trả lại cho bị cáo Thạch Q 01 (một) chứng minh nhân dân mang tên Thạch Q.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo đã nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên rất ăn năn hối cải, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về tu chí làm ăn trở thành công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Tân Uyên, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

 [2] Qua chứng cứ thể hiện trong hồ sơ vụ án cũng như lời trình bày của các bị cáo tại phiên tòa xác định:

Ngày 29/10/2017, Võ Văn T và Thạch Q đã có hành vi dùng dao mã tấu tự chế là hung khí nguy hiểm đánh gây thương tích cho ông Trần Hoàng A với tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 12% (Mười hai phần trăm). Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các vết thương của bị hại thể hiện tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 60/2018/GĐPY ngày 27/02/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Bình Dương. Như vậy, đủ căn cứ kết luận các bị cáo Võ Văn T và Thạch Q đã phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Các bị cáo phạm tội với hình thức đồng phạm giản đơn, cùng thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, bị cáo T là người rủ rê, chuẩn bị hung khí và là người trực tiếp gây thương tích cho bị hại; bị cáo Q là người giúp sức tích cực về tinh thần và vật chất để gây thương tích cho bị hại. Hành vi trên đây của các bị cáo không những xâm phạm đến quyền được bảo vệ về sức khỏe của người khác mà còn gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Các bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi gây thương tích cho người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện và bất chấp hậu quả. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt thật nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ tội phạm của các bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung trong xã hội.

 [4] Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cân nhắc, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo như sau:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Võ Văn T có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã bồi thường cho bị hại; bị hại có đơn xin bãi nại cho bị cáo; có mẹ là Lê Thị T được tặng bằng khen góp công, góp sức trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước; sau khi phạm tội bị cáo đã đầu thú ngày 25/3/2018; đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự sửa đổi bổ sung năm 2017.

Bị cáo Thạch Q có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; là người dân tộc Khơme; sau khi phạm tội đã đầu thú ngày 14/5/2018; bị cáo sinh ngày 01-01-2000, tính tại thời điểm phạm tội thì bị cáo chưa đủ 18 tuổi, đây là cáctình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự sửa đổi bổ sung năm 2017 và chương XII của Bộ luật hình sự.

Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo để thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước.

 [5] Xét thấy, mức án của đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo Võ Văn Tâm là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo nên chấp nhận. Riêng việc đề nghị áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo Thạch Quang là chưa tương xứng với vai trò, hành vi của bị cáo.

 [6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu bồi thường gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[7] Đối với đối tượng tên H, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên tiếp tục xác minh, thu thập chứng cứ để điều tra xử lý sau là phù hợp.

 [8] Về xử lý vật chứng: 01 cây tre hình tròn, dài 80 cm là vật do bị hại giao nộp cần tịch thu tiêu hủy; 01 chứng minh nhân dân mang tên Võ Văn T và 01 chứng minh nhân dân mang tên Thạch Q không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho các bị cáo.

 [9] Về án phí sơ thẩm: Các bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1- Tuyên bố bị cáo Võ Văn T phạm tội Cố ý gây thương tích.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Điều 58 Bộ luật Hình sự sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Võ Văn T 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt để thi hành án.

- Tuyên bố bị cáo Thạch Q phạm tội Cố ý gây thương tích. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 và chương XII của Bộ luật hình sự sửa đổi bổ sung năm 2017; Xử phạt bị cáo Thạch Q 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt để thi hành án.

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Áp dụng các điều 46, 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 cây tre hình tròn, dài 80 cm;

Trả lại cho bị cáo Võ Văn Tâm 01 chứng minh nhân dân mang tên Võ Văn T;

Trả lại cho bị cáo Thạch Quang 01 chứng minh nhân dân mang tên Thạch Q.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/7/2018 tại Chi cục hi hành án dân sự thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương).

3. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Võ Văn T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng), bị cáo Thạch Q phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

282
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 96/2018/HS-ST ngày 21/09/2018 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:96/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về