Bản án 96/2018/HNGĐ-ST ngày 29/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRIỆU SƠN, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 96/2018/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 29 /11/2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Triệu Sơn, tỉnh Txét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 267/2018/HNGĐ - ST ngày 10 tháng 9 năm 2018 về “ Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 88/2018/QĐST- HNGĐ ngày 29 tháng 10 năm 2018 và quyết định hoãn phiên tòa số 56 ngày 14 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Hà Trọng T, sinh năm 1974

Trú tại: Xóm 16, xã Xuân T, huyện T, tỉnh T

-Bị đơn: Chị Trịnh Thị N, sinh năm 1972

Nơi cư trú cuối cùng: Thôn Đức Long 2, xã Ahuyện T, tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện về việc tranh chấp hôn nhân gia đình và bản tự khai, cũng như tại đơn xin xét xử vắng mặt, nguyên đơn là anh Hà Trọng T trình bày giữa anh và bị đơn là chị Trịnh Thị N đăng ký kết hôn vào ngày 23 tháng 11 năm 1991 tại UBND xã Thọ L, huyện T, tỉnh Ttrên cơ sở tự nguyện.

Quá trình chung sống với nhau vợ chồng hạnh phúc được một thời gian dài thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng về quan điểm sống, không có tiếng nói chung trong gia đình, thường xuyên cãi nhau, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Vì vậy từ tháng 10 năm 2014 đến nay chị N bỏ nhà đi đâu, làm gì anh và gia đình không ai biết được tin tức, chị N cũng không chủ động liên lạc về cho anh và gia đình, mặc dù anh và gia đình đã đi tìm kiếm mà vẫn không có tin tức gì. Vì vậy anh T đã làm đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố chị N mất tích. Ngày 21 tháng 8 năm 2018 Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Tđã giải quyết việc dân sự, ra quyết định số 06/2018/ QDDS- ST tuyên bố chị Trịnh Thị N mất tích.

Nay anh T xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chịTrịnh Thị N.

 Về con chung: Anh T trình bầy vợ chồng anh chị có một con chung với nhau, tên cháu là Hà Trọng N, sinh ngày 30 tháng 7 năm 1996, hiện nay cháu đã trưởng thành, đi làm tự nuôi sống bản thân, nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản và phần nợ: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1].Về tố tụng: Anh Hà Trọng T có đơn xin xét xử vắng mặt, chị Trịnh Thị N mất tích, hiện nay vẫn không có tin tức ; Căn cứ vào khoản 2 Điều 227 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2].Về hôn nhân: anh Hà Trọng T và chị Trịnh Thị N đăng ký kết hôn vào ngày 23 tháng 11 năm 1991 tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Ttrên cơ sở tự nguyện, như vậy là hôn nhân hợp pháp.

Theo anh Ttrình bày quá trình chung sống với nhau vợ chồng đoàn tụ hạnh phúc được một thời gian dài thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp, thường xuyên bất đồng về quan điểm sống, vợ chồng hay cãi nhau, đến tháng 10 năm 2014 chị N bỏ nhà đi đâu, làm gì anh và gia đình đều không biết được, trong thời gian chị N bỏ nhà đi, anh T và gia đình đã tìm kiếm khắp nơi, ®· ¸p dông c¸c biÖn ph¸p th«ng b¸o t×m kiÕm nh•ng vÉn kh«ng cã kÕt qu¶, kh«ng cã tin tøc g× vÒ chÞ. Ngày 21 tháng 8 năm 2018 Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Tđã giải quyết việc dân sự, ra quyết định số 06/2018/ QDDS- ST tuyên bố chị Trịnh Thị N mất tích.

Xét yêu cầu của anh Hà Trọng T thì thấy, mục đích hôn nhân không đạt được, tình trạng hôn nhân trầm trọng, chị Trịnh Thị N đã bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Ttuyên bố chị mất tích. Vì vậy áp dụng khoản 2 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận đơn xin ly hôn của anh Hà Trọng T, xử cho anh Tám được ly hôn chị Trịnh Thị N.

[3].Về con chung: Vợ chồng anh chị có một con chung với nhau, tên cháu là Hà Trọng N, sinh ngày 30 tháng 7 năm 1996, hiện nay cháu đã trưởng thành, đi làm tự nuôi sống bản thân, anh T không yêu cầu, nên Tòa án không xét.

[4].Về tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.

[5].Về án phí: Anh Hà Trọng Tphải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51; Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, khoản 4 điều 147, khoản 2 Điều 227 và Điều 238; Điều 271,khoản 1 Điều 273, khoản 2 Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự. Điểm a, Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của uỷ ban thường vụ Quốc hội, điểm 1.1, tiểu mục 1, mục II phần A danh mục mức án phí, lệ phí Toà án ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016.

Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Hà Trọng T, xử cho anh Tám được ly hôn chị Trịnh Thị N.

Về con chung: Cháu Hà Trọng N, sinh ngày 30 tháng 7 năm 1996, hiện nay đã trưởng thành, đi làm tự nuôi sống bản thân, anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.

Về tài sản: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.

Về án phí: Anh Hà Trọng T phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm. Số tiền tạm ứng án phí anh đã nộp tại Chi cục thi hành án huyện Ttheo biên lai số AA/2017/0005207 ngày 7 tháng 9 năm 2018 nay trừ vào án phí ly hôn. Anh T đã nộp đủ.

Án xử công khai sơ thẩm vắng mặt nguyên đơn, bị đơn. Anh Hà Trọng Tvà chị Trịnh Thị N được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 96/2018/HNGĐ-ST ngày 29/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:96/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Triệu Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về