Bản án 95/2021/HS-ST ngày 23/09/2021 về tội trộm cắp tài sản 

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 95/2021/HS-ST NGÀY 23/09/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 9 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 106/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 9 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 105/2021/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Hồng X; Sinh ngày 15/02/2001; Nơi sinh: Sóc Trăng; Đăng ký thường trú: ấp H, xã X, huyện K, tỉnh Sóc Trăng. Tạm trú: đường P, Khóm B, Phường T, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn T và bà Trần Thanh M; Có chồng tên Nguyễn Văn N, sinh năm 1991 và con 01 người, sinh năm 2019; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ 15 tháng 7 năm 2021 và chuyển tạm giam cho đến nay (có mặt).

- Bị hại: Huỳnh Văn L, sinh năm 1988. Nơi cư trú: đường H, Khóm C, thị trấn Q, huyện T, tỉnh Trà Vinh.(vắng mặt)

- Người làm chứng:

+ Tào Thị Kim H, sinh năm 1963. Nơi cư trú: ấp A, xã T, huyện L, tỉnh 1 Sóc Trăng. Chỗ ở: đường P, Khóm B, Phường T, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng vắng mặt)

+ Đoàn Văn D, sinh năm 2001. Nơi cư trú: đường B, Khóm N, Phường T, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị Hồng X và Huỳnh Văn L là bạn bè quen biết nhau trên mạng xã hội. Vào ngày 28 tháng 12 năm 2020, L điều khiển xe mô tô, biển số 94K2- 001.38 đến thành phố Sóc Trăng hẹn gặp X và chờ X đến nhà nghỉ 108, đường Phạm Hùng, khóm 3, phường 8, thành phố Sóc Trăng, tinh Sóc Trăng để tâm sự. Khi lại đến nhà nghĩ, L để xe ở khu vực đậu xe trong nhà nghỉ và thuê phòng số 3, sau đó cả hai đi vào phòng L nằm xem ti vi, nên X đã lợi dụng sự sơ hở của L, X lén lút lấy trộm chìa khóa xe của L để trên bàn rồi đi ra ngoài khóa cửa bên ngoài lại, X đi ra chỗ L đậu xe và lấy xe chạy về nơi ở của X và Đoàn Văn D là người sống chung như vợ chồng với X, tại số 266, đường Bạch Đằng, khóm 5, phường 4, thành phố Sóc Trăng và X đưa xe cho Dự để sử dụng làm phương tiện đi lại. Còn L khi phát hiện tiếng xe nổ máy thì L liền chạy ra để xem nhưng do cửa phòng bị X khoa ngoài, nên L không ra được. L liền dùng chân đạp vào cửa làm bung khóa và đi ra ngoài thì X đã chạy xe đi, nên L đã đến Công an phường 8 trình báo sự việc. Quá trình Cơ quan điều tra mời X làm việc thì X đã lhi nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân.

Tại bạn kết luận định giá tài sản số 05/KLĐGTS ngày 19 tháng 01 năm 2 của Hội đồng định giá tài sản Thành phố Sóc Trăng Sóc Trăng kết luận: 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 94K2- 001.38, nhãn hiệu Honda Só loại Winnerx, màu đỏ, bạc, đen, đã qua sử dụng, với số tiền 40.950.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 109/CT-VKS.TPST ngày 31 tháng 8 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Hồng X về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1, Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại toà, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Hồng X phạm tội “Trộm cắp tài sản”; đề nghị áp dụng khoản 1, Điều 173 của; điểm s, h, i khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo X; đề nghị xử phạt bị cáo X từ 09 tháng đến 12 tháng tù;

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại được tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường, nên không đặt ra xem xét.

Xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điểm a, khoản 2, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 (một) ổ khóa bằng kim loại màu đen có dòng chữ Maxpro, dính vào khoen kim loại màu xám, có chìa khóa, chìa khóa có gắn miếng nhựa có ghi chữ số 3; 01 (một) ốc vít bằng kim loại màu trăng xám;

Tại tòa, bị cáo X thừa nhận cáo trạng truy tố đúng với hành vi bị cáo thực hiện, bị cáo nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Ngoài ra, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định pháp luật.

[2]. Đối với việc vắng mặt bị hại Huỳnh Văn L, người làm chứng Tào Thị Kim Huyện, Đoàn Văn Dự đã có lời khai làm rõ các tình tiết vụ án, việc vắng mặt của những người này không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292, Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự để xét xử vắng mặt những người nêu trên.

[3]. Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thị Hồng X khai nhận: bị cáo X và bị hại L có quan hệ bạn bè, do không có phương tiện đi lại nên vào khoảng 13 giờ 00 phút, ngày 28 tháng 12 năm 2020, tại nhà nghỉ 108, đường Phạm Hùng, khóm 3, phường 8, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng, bị cáo lợi dụng bị hại L sơ hở khi xem tivi nên lấy chìa khóa xe của bị hại và khóa cửa phòng không cho bị hại L ra ngoài rồi lén lút chiếm đoạt 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 94K2- 001.38, nhãn hiệu Honda, số loại Winnerx, màu đỏ, bạc, đen của bị hại Huỳnh Văn L, sau đó thì bị Công an mời lên làm việc, bị cáo X đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình.

Qua định giá tài sản mà bị cáo chiếm đoạt có giá trị 40.950.000 đồng. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại, các chứng cứ và tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Nên Hội đồng xét xử đủ cơ sở xác định: Bị cáo X lén lút chiếm đoạt tài sản chiếc xe mô tô của bị hại L có giá trị 40.950.000 đồng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác. Do đó, Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Nguyễn Thị Hồng X phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Như vậy, Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng truy tố đối với hành vi của bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3]. Tuy nhiên, xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trước khi phạm tội bị cáo chưa có tiền án, tiền sự và sau khi thực hiện hành vi phạm tội, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản chiếm đoạt đã thu hồi kịp thời và trả lại cho bị hại nên không gây thiệt hại lớn. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm h, điểm i, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự cần được xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại được tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường, nên không đặt ra xem xét.

[5]. Xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điểm a, khoản 2, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 (một) ổ khóa bằng kim loại màu đen có dòng chữ Maxpro, dính vào khoen kim loại màu xám, có chìa khóa, chìa khóa có gắn miếng nhựa có ghi chữ số 3; 01 (một) ốc vít bằng kim loại màu trăng xám;

[6]. Xét lời đề nghị của kiểm sát viên về việc áp dụng pháp luật là có căn cứ, về mức hình phạt cần xử phạt bị cáo ở mức khởi điểm như Kiểm sát viên đề nghị là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi mà bị cáo gây ra.

[7]. Về án phí hình sự sơ thẩm: buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1, Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Nguyễn Thị Hồng X.

Tuyên bố Bị cáo Nguyễn Thị Hồng X phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

1. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Hồng X 09 (chín) tháng tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày 15 tháng 7 năm 2021.

2. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại được tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

3. Xử lý vật chứng: áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điểm a, khoản 2, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 (một) ổ khóa bằng kim loại màu đen có dòng chữ Maxpro, dính vào khoen kim loại màu xám, có chìa khóa, chìa khóa có gắn miếng nhựa có ghi chữ số 3; 01 (một) ốc vít bằng kim loại màu trăng xám;

4. Án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng.

Báo cho bị cáo được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, bị hại được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 95/2021/HS-ST ngày 23/09/2021 về tội trộm cắp tài sản 

Số hiệu:95/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về