Bản án 95/2021/HS-ST ngày 16/09/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN G, TỈNH ĐIỆN B

BẢN ÁN 95/2021/HS-ST NGÀY 16/09/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16/9/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần G, tỉnh Điện B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 96/2021/TLST-HS ngày 24/8/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 94/2021/QĐXXST-HS ngày 01/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện Tuần G đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Lò Thị H; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nữ; Sinh năm 1973 tại huyện Tủa Ch, tỉnh Điện B; Nơi ĐKTT: Bản Nong T, xã Nà T, huyện Tuần G, tỉnh Điện B; nơi ở hiện nay: Bản Nà T, xã Nà T, huyện Tuần G, tỉnh Điện B; Quốc tịch: Việt nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Nông nghiệp; Trình độ học vấn: Không biết chữ; con ông: Lò Văn M (Đã chết); con bà: Lò Thị P (Đã chết); chồng, con: Chồng Lò Văn S (đã chết) và có 04 người con, con lớn nhất sinh năm 1993, con nhỏ nhất sinh năm 2005; tiền án: Ngày 26/9/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Tuần G, tỉnh Điện B xử phạt 08 năm tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”, đến 01/7/2018 chấp hành xong hình phạt trở về địa phương sinh sống; tiền sự: Không; nhân thân: Chưa được xóa án tích; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/6/2021 đến ngày xét xử, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Người phiên dịch cho bị cáo: Bà Tòng Thị Th - SN 1990 Địa chỉ: Bản Bó, xã Chiềng Đ, huyện Tuần G, tỉnh Điện B, có mặt phiên dịch cho bị cáo.

3. Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Th - Là luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Điện B, có mặt bào chữa cho bị cáo.

4. Người có nghĩa vụ liên quan: Chị Lò Thị Th - SN 1984 Trú tại: Bản Nong Tóng, xã Nà T, huyện Tuần G, tỉnh Điện B, vắng không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ sáng ngày 06/06/2021, Lò Thị H đi làm ruộng về đến khu vực bản Nà T, xã Nà T, huyện Tuần G, tỉnh Điện B thì gặp một người đàn ông khoảng 30 tuổi không biết tên, địa chỉ ở trên đường. Người đó chủ động hỏi H có lấy Heroine về bán không, Hặc đồng ý mua. Qua trao đổi H mua được của người đó 01 gói Heroine được gói bằng nilon màu xanh, bên ngoài gói lại bằng túi nilon màu trắng với giá 100.000 đồng. Mua được Heroine, H cất giấu trong túi áo bên phải đi bộ về nhà. Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 06/6/2021, H cấu ra một ít Heroine tính giá trị 50.000 đồng trả công gặt lúa thuê cho Lò Thị Th, SN 1984, trú tại bản Nong T, xã Nà T, huyện Tuần G, Th đã tự ý sử dụng hết số Heroine H trả công gặt lúa tại nhà H nhưng H không biết. Khoảng 17 giờ cùng ngày, Th lại hỏi mua Heroine của H. H đồng ý bán và dùng tay cấu ra một ít H gói lại bằng mảnh nilon màu xanh cũ đưa cho Th tính giá 200.000 đồng (Gói Heroine này Th đã mang về nhà sử dụng hết). Số tiền 200.000 đồng bán ma túy cho Th, bị cáo đã mua thức ăn hết. Đến hồi 17 giờ 15 phút ngày 06/06/2021, tổ công tác công an huyện Tuần G phát hiện và bắt quả tang thu giữ trong túi áo bên phải đang mặc của H 01 gói Heroine.

Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng hồi 22 giờ 20 phút, ngày 06/6/2021 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuần G đã xác định: Mẫu chất bột màu trắng nghi Heroine thu giữ của Lò Thị H có khối lượng 0,28 gam, trích mẫu 0,05 gam, còn lại 0,23 gam.

Tại Bản kết luận giám định số: 633/GĐ-PC09 ngày 16/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện B đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định thu giữ của Lò Thị H là Heroine. Không hoàn lại mẫu sau khi giám định.

Tại phiên tòa, bị cáo cũng thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã truy tố: Do bản thân lười lao động nên bị cáo đã đi mua Heroine để bán kiếm lời. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đã thành khẩn thật thà khai báo.

Tại bản Cáo trạng số: 81/CT-VKSTG ngày 24/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần G đã truy tố bị cáo về tội: "Mua bán trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm b, điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần G luận tội bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm b, điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Lò Thị H từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy".

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Về vật chứng: Căn cứ điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy một phong bì niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có chứa 0,23 gam Heroine đựng trong 01 túi nilon màu trắng hàn kín lại; 01 túi nilon màu trắng; 01 mảnh nilon màu xanh và 01 vỏ phong bì cũ dùng để niêm phong vật chứng. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 200.000 đồng do bán ma túy cho Lò Thị T mà có (Chưa thu)

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không tự bào chữa cho hành vi của mình, nhờ người bào chữa, bào chữa cho bị cáo.

Quan điểm bào chữa: Nhất trí với bản Cáo trạng và bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo về tội danh và tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, nhất trí với việc đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung, miễn án phí cho bị cáo. Tuy nhiên người bào chữa đề nghị HĐXX xem xét thêm các yếu tố về nhân thân, hoàn cảnh gia đình: Bị cáo không được đi học, chồng bị cáo mất sớm một mình phải nuôi 4 con, bị cáo sinh sống tại địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nên đề nghị áp dụng hình phạt thấp hơn mức đại diện Viện kiểm sát đề nghị.

Đại diện Viện kiểm sát không nhất trí với quan điểm bào chữa, cho rằng: Căn cứ vào các quy định của pháp luật về tình tiết giảm nhẹ thì hoàn cảnh gia đình và nhân thân không phải là căn cứ áp dụng tình tiết giảm nhẹ thêm đối với bị cáo, bị cáo đã một lần phạm tội, lại tái phạm nguy hiểm, do vậy mức hình phạt đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp.

Người bào chữa và đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm không tranh luận gì thêm. Bị cáo không bổ sung gì vào lời bào chữa.

Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét hành vi của bị cáo bị truy tố: Hồi 17 giờ 15 phút, ngày 06/6/2021 tại nhà bị cáo bản Nà T, xã Nà T, huyện Tuần G bị cáo bị bắt quả tang khi đang cất giấu trái phép 0,28 gam Heroine nhằm mục đích bán kiếm lời, trước đó bị cáo đã hai lần bán ma túy cho Lò Thị Th.

Hành vi của bị cáo được chứng minh bằng biên bản bắt ng ười phạm tội quả tang (BL 01- 02); Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng (BL 21-22); Kết luận giám định (BL 87); các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung của bị cáo, các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và quá trình thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay. Hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đã đầy đủ yếu tố cấu thành tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Với tác hại của chất ma túy đối với sức khỏe con người và mối nguy hại của nó đối với gia đình và xã hội. Nhà nước và toàn thể nhân dân đang có những chính sách, biện pháp phòng chống ngăn chặn nhằm đẩy lùi tệ nạn và những tội phạm về ma túy thì bị cáo lại tiếp tay cho tội phạm ma túy phát triển, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân.

Từ những phân tích trên, HĐXX khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần G truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình.

[2] Xét tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy: Bị cáo đã hai lần bán ma túy cho Lò Thị Th còn cất giấu trái phép 0,28 gam Heroine nhằm mục đích bán kiếm lời, hành vi của bị cáo thực hiện trong thời gian chưa được xóa án tích về tội rất nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo thuộc điểm b, điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự với mức hình phạt từ 07 đến 15 năm tù, hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng.

[3] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo Lò Thị H sinh ra và lớn lên tại huyện Tủa Ch, tỉnh Điện B không được đi học. Ngày 26/9/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Tuần G, tỉnh Điện B xử phạt 08 năm tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”, đến 01/7/2018 chấp hành xong hình phạt trở về địa phương sinh sống, hiện chưa được xóa án tích. Đến ngày 06/6/2021 lại tiếp tục phạm tội, hành vi của bị cáo thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, HĐXX áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

HĐXX sẽ xem xét hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo để có mức hình phạt phù hợp với tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nhưng nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, để lần nữa cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội, xét đề nghị của đại diện VKS là có căn cứ nên cần được chấp nhận. Quan điểm của người bào chữa cho rằng căn cứ vào các yếu tố nhân thân, hoàn cảnh gia đình đề nghị áp dụng mức hình phạt thấp hơn mức khởi điểm của đại diện Viện kiểm sát là không có căn cứ chấp nhận.

Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, bị cáo khai mua của một đàn ông không rõ tên tuổi địa chỉ tại bản Nà T, xã Nà T, huyện Tuần G nên cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra làm rõ được, HĐXX không xem xét.

Đối với Lò Thị T: Lời khai của Th tại cơ quan điều tra đã thừa nhận việc hai lần trao đổi mua bán ma túy với bị cáo Lò Thị H, Th mua ma túy của H để sử dụng, lời khai của Th phù hợp với lời khai của Lò Thị H. Xét thấy hành vi của Th không cấu thành tội phạm, ngày 12/8/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tuần G đã xử phạt vi phạm hành chính, HĐXX không xem xét [4] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Song xét thấy hoàn cảnh gia đình bị cáo chỉ làm nông nghiệp, là hộ cận nghèo nên không có khả năng thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5]. Về xử lý vật chứng: Đối với số ma túy thu giữ của bị cáo, là vật nhà nước cấm tàng trữ lưu hành cần được tịch thu tiêu hủy. Đối với số tiền 200.000 đồng bán ma túy cho Lò Thị Th, bị cáo đã tiêu sài hết, xét thấy đây là số tiền thu lợi bất chính, cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

Căn cứ điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy một phong bì niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có chứa 0,23 gam Heroine đựng trong 01 túi nilon màu trắng hàn kín lại; 01 túi nilon màu trắng; 01 mảnh nilon màu xanh và 01 vỏ phong bì cũ dùng để niêm phong vật chứng. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 200.000 đồng do bán ma túy cho Lò Thị Th mà có (Chưa thu)

[6]. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sống tại địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, là hộ cận nghèo thuộc diện được miễn án phí, HĐXX miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[7] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tuần g, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần G, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b, q khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự:

1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Thị Hphạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt: Bị cáo Lò Thị H: 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính ngày bắt tạm giữ, ngày 06/6/2021.

3. Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy một phong bì niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có chứa 0,23 gam Heroine đựng trong 01 túi nilon màu trắng hàn kín lại; 01 túi nilon màu trắng; 01 mảnh nilon màu xanh và 01 vỏ phong bì cũ dùng để niêm phong vật chứng. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 200.000 đồng do mua bán ma túy cho Lò Thị Th mà có (Chưa thu) (Toàn bộ vật chứng đã được Công an huyện Tuần G bàn giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuần G hồi 15 giờ 30 phút, ngày 27 tháng 8 năm 2021)

4. Án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, ngày 16/9/2021./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

121
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 95/2021/HS-ST ngày 16/09/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:95/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về