TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 95/2021/HSST NGÀY 14/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 14 tháng 6 năm 2021, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 103/2021/TLST-HS ngày 07 tháng 5 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 100/2021/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2021 đối với các bị cáo:
1. Bị cáo: Lường Thị N; tên gọi khác: Không; Giới tính: Nữ; sinh ngày: 01/01/1988, tại Điện Biên; nơi cư trú: Bản V, xã P, thành phố Đ, tỉnh Đ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Khơ Mú; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: Nghe và nói thành thạo tiếng phổ thông; con ông: Lường Văn T và bà Lò Thị S; chồng: Chưa có; con: Có 01 con sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Là đối tượng sử dụng ma túy; bị tạm giữ từ ngày 02/02/2021, sau đó bị tạm giam cho đến nay; có mặt.
2. Bị cáo: Lường Văn H; tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; sinh ngày: 15/5/1990, tại Điện Biên; nơi cư trú: Bản K, xã P, thành phố Đ, tỉnh Đ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Khơ Mú; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 5/12; con ông: Lường Văn Đ (đã chết) và bà Lường Thị S; vợ: Chưa có; con: Có 01 con sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Là đối tượng sử dụng ma túy; bị tạm giữ từ ngày 02/02/2021, sau đó bị tạm giam cho đến nay; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau 1. Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 02/02/2021, Lường Thị N rủ Lường Văn H đi mua ma túy về sử dụng. H dùng xe máy biển kiểm soát 27F1- 028.79, chở N đến bản Lọng Háy, xã Mường Phăng, thành phố Điện Biên Phủ; gặp một người phụ nữ dân tộc Mông ở ngoài đường, H hỏi để mua 100.000 đồng Heroine, người phụ nữ nói chỉ bán 200.000 đồng; H và N góp mỗi người 100.000 đồng đưa cho người này; người này nhận tiền rồi đưa cho N một gói nhỏ bằng nilon xanh, bên trong có các cục chất bột màu trắng đục, các bị cáo khai đó là Heroine. H chở N vào rừng khu vực bản Lọng Nghịu, xã Mường Phăng, thành phố Điện Biên Phủ để sử dụng ma túy, thì gặp tổ công tác công an xã Mường Phăng, thành phố Điện Biên Phủ; N liền ném gói ma túy xuống đất, nH đã bị bắt quả tang, thu giữ và niêm phong toàn bộ tang vật, tạm giữ chiếc xe máy biển kiểm soát 27F1- 028.79.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình như đã nêu trên.
2. Các vấn đề khác: Chiếc xe máy biển kiểm soát 27F1- 028.79 là của bà Lường Thị Sơ (Mẹ bị cáo H); bà Sơ không biết việc phạm tội của các bị cáo và đã nhận lại xe máy từ Cơ quan điều tra.
Kết luận giám định số 219/GĐ-PC09 ngày 88/02/2021 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Điện Biên kết luận: Các cục chất bột màu trắng gửi giám có tổng khối lượng 0,8 gam; là chất ma túy loại Heroine, nằm trong danh mục các chất ma túy số thứ tự 09, mục IA, danh mục I Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Sau giám định không hoàn lại 0,04 gam mẫu vật.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không khiếu nại về kết luận giám định nêu trên.
2. Cáo trạng số 51/CT-VKSTPĐBP ngày 06/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ truy tố các bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố, các bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.
Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17 và Điều 58 BLHS: Xử phạt mỗi bị cáo từ 15 tháng đến 18 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Vật chứng còn lại đề nghị tịch thu để hủy.
4. Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi HĐXX nghị án: Các bị cáo đã biết việc làm của mình là vi phạm pháp luật, các bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với vật chứng thu giữ được, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Có đủ căn cứ để xác định: Các bị cáo đã cùng nhau đi mua và cất giữ trái phép 0,8 gam Heroine, với mục đích để sử dụng và đã bị Công an xã Mường Phăng, thành phố Điện Biên Phủ phát hiện bắt quả tang tại bản Lọng Nghịu, xã Mương Phăng, thành phố Điện Biên Phủ và lập biên bản vào lúc 17 giờ 50 phút ngày 02/02/2021. Các bị cáo không có sự phân công vai trò, trách nhiệm từ trước; sự đồng phạm có tính giản đơn, nên vụ án không có tính tổ chức, trong đó bị cáo N là người khởi xướng, bị cáo H là người tích cực thực hiện cùng với bị cáo N.
Khoản 1 Điều 249 BLHS quy định: "Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
...c. Heroine...có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam" Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điều luật đã viện dẫn ở trên.
[2] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội; nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt: Các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền về quản lý các chất ma túy của Nhà nước, mà nguyên nhân là do các bị cáo thiếu ý thức chấp hành pháp luật, để thỏa mãn nhu cầu bản thân nên đã phạm tội. HĐXX xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, để giáo dục, cải tạo các bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm nói chung. Các bị cáo có vai trò ngang nhau trong vụ án, nên phải chịu hình phạt như nhau. Áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình đối với các bị cáo. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; mức hình phạt và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX áp dụng đối với các bị cáo là có cơ sở để chấp nhận.
[3] Về hình phạt bổ sung: Theo Khoản 5 Điều 249 BLHS thì: "Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản". Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa cho thấy: Các bị cáo ngoài làm ruộng ra thì không có công việc, thu nhập khác, không có tài sản gì đáng kể; do đó HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
[4] Vật chứng và các vấn đề khác: Số ma túy còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành, tịch thu để hủy cùng mảnh nilon dùng để gói ma túy không còn giá trị. Các bị cáo không quen biết người bán ma tuý cho mình, nên không có cơ sở điều tra làm rõ. Bà Sơ không biết việc phạm tội của các bị cáo và đã được nhận lại xe máy theo quy định của pháp luật nên không đề cập xử lý.
[5] Án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Điện Biên Phủ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Các bị cáo Lường Thị N và Lường Văn H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
2. Hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17 và Điều 58 Bộ luật hình sự:
- Xử phạt bị cáo Lường Thị N 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 02/02/2021.
- Xử phạt bị cáo Lường Văn H 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 02/02/2021.
3. Vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS; khoản 1 và điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS: Tịch thu để hủy 0,76 gam Heroine và 01 mảnh nilon đã niêm phong (Biên bản giao nhận vật chứng ngày 07 tháng 5 năm 2021 giữa Chi cục thi hành án dân sự và Cơ quan cảnh sát điều tra).
4. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (14/6/2021).
Bản án 95/2021/HSST ngày 14/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 95/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về