Bản án 95/2019/HS-ST ngày 19/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 95/2019/HS-ST NGÀY 19/06/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 83/2019/TLST-HS ngày 06 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 88/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Vy Đức D, sinh ngày 04 tháng 04 năm 1984 tại tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Đường T, khối B, phường T, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vy Văn C và bà Triệu Thị B; Có vợ là Phạm Thị N và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại Bản án số 53/2012/HSST ngày 19/4/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, Vy Đức D bị xử phạt 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam còn phải chấp hành 21 tháng 11 ngày, thời gian thử thách là 42 tháng 22 ngày về tội Cố ý gây thương tích, nay đã được xóa; Tại bản án số 02/2013/HSST ngày 23/01/2013 của Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn, Vy Đức D bị xử phạt 18 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 năm 02 tháng 08 ngày về tội Cố ý gây thương tích, nay đã được xóa; Ngày 08/01/2008 bị Công an tỉnh Lạng Sơn ra quyết định số 44/QĐ xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại về hành vi vận chuyển hàng hóa nhập lậu, phạt tiền 1.500.000đồng; ngày 19/12/2011 bị Công an thành phố Lạng Sơn xử phạt vi phạm hành chính về hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản, phạt tiền 2.000.000đồng, đều đã được xóa; bị bắt, tạm giam từ ngày 10/12/2018 cho đến nay. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Lâm Văn P, sinh năm 1995. Trú tại: Thôn N, xã C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt;

- Người làm chứng: Anh Hoàng Ngọc Q, anh Nguyễn Đức P, anh Hoàng Ngọc T, anh Linh Quang P, anh Nguyễn Chí C, anh Hoàng Văn Q, anh Chu Hữu N. Đều vắng mặt;

- Người chứng kiến: Ông Nguyễn Văn B, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ 20 phút ngày 10/12/2018 tại quán internet T ở đường N, phường T, thành phố L, tổ công tác Công an thành phố Lạng Sơn phối hợp với Công an phường Tam Thanh và phường Hoàng Văn Thụ phát hiện 09 đối tượng đang chơi điện tử có dấu hiệu sử dụng trái phép chất ma túy bao gồm: Vy Đức D, Hoàng Ngọc Q, Nguyễn Đức P, Hoàng Ngọc T, Linh Quang P, Nguyễn Chí C, Lâm Văn P, Hoàng Văn Q và Chu Hữu N, tổ công tác đã tiến hành kiểm tra và thu giữ tại phòng máy tính trong cùng của quán internet T 01 chai nhựa có gắn vòi hút; thu giữ trong túi áo khoác của Vy Đức D 01 túi vải màu đỏ bên trong có 01 túi nilon màu xanh kích thước 10 x 8cm chứa 71 viên nén màu hồng và 01 túi nilon màu trắng kích thước 3 x 2,5cm chứa chất tinh thể màu trắng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đỏ đã qua sử dụng có số IMEI 354083094578802 và số tiền 537.000đồng của Vy Đức D; 01 điện thoại di động nhãn hiệu HUAWEI NOVA 3I màu xanh đã qua sử dụng có số IMEI 866345043375080 của Lâm Văn P.

Quá trình điều tra, Vy Đức D khai nhận bản thân thường xuyên sử dụng ma túy và mang ma túy đến quán internet T để bán kiếm lời. Khoảng đầu tháng 11/2018, Vy Đức D bán cho Nguyễn Chí C 200.000đồng ma túy đá và ngựa; đầu tháng 12/2018 bán hai lần ma túy đá cho Linh Quang P, mỗi lần 200.000đồng, cho Lâm Văn P sử dụng ma túy rồi lấy của Lâm Văn P 200.000đồng. Trưa ngày 07/12/2018, Vy Đức D bán cho Hoàng Ngọc Q 100.000đồng ma túy đá; chiều ngày 08/12/2018 Vy Đức D bán cho Chu Hữu N 100.000đồng ma túy đá; sáng ngày 09/12/2018 tiếp tục bán cho Chu Hữu N 100.000đồng ma túy đá; khoảng 15 giờ ngày 10/12/2018 Vy Đức D điều khiển xe máy hiệu Dream màu nâu không rõ biển kiểm soát đến quán internet T gặp T, không rõ tuổi, địa chỉ và trả chiếc xe máy cho T về nhà, sau đó đi bộ vào trong quán internet gặp một nam thanh niên không rõ tên, địa chỉ thường đến quán điện tử để tìm người mua ma túy, hay còn gọi là "ship đồ" để mua ma túy. Vy Đức D đưa cho người đó 1.100.000đồng, người đó nhận tiền và đi khoảng 10 phút sau quay lại đưa cho Vy Đức D một túi vải màu đỏ. Vy Đức D kiểm tra bên trong có một túi nilon màu xanh chứa nhiều viên nén màu hồng và 01 túi nilon màu trắng chứa chất tinh thể màu trắng; Vy Đức D lấy 02 viên nén màu hồng ra sử dụng một mình tại góc phòng máy thứ ba rồi cất số ma túy còn lại vào túi áo khoác bên phải đang mặc để tiếp tục sử dụng cho bản thân và bán kiếm lời. Sau khi sử dụng xong, Vy Đức D đi ra ngoài chơi điện tử thì bị lực lượng Công an đến kiểm tra, phát hiện và thu giữ số ma túy trên.

Tại bản Kết luận giám định số 30/KL-PC09 ngày 13/12/2018 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận:

- 71 viên nén màu hồng gửi giám định đều là chất ma túy Methamphetamine có tổng khối lượng 6,824gam (đã trừ bì);

- Chất tinh thể màu trắng gửi giám định là chất ma túy Methamphetamine có khối lượng 0,180gam (đã trừ bì).

Như vậy, số ma túy gửi giám định đều là ma túy Methamphetamine có tổng khối lượng là 7,004gam (đã trừ bì); mẫu vật hoàn lại sau giám định là một phong bì có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Mạnh H, trợ lý giám định và các hình dấu của phòng Kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới bên trong có 01 túi nilon màu xanh (cũ) đựng 5,284gam Methamphetamine viên nén và 01 túi nilon màu trắng (cũ) đựng 0,121 gam Methamphetamine tinh thể.

Tại Cáo trạng số 87/CT-VKS ngày 04/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố Vy Đức D về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b, c, i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Vy Đức D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và những người làm chứng vắng mặt nhưng quá trình điều tra, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lâm Văn P đã khai nhận được góp tiền với nhiều người khác để mua ma túy với Vy Đức D, những lần Vy Đức D không có mặt ở quán điện tử, một số người khác đã mượn điện thoại của Lâm Văn P để gọi điện thoại cho Vy Đức D mua ma túy, sau đó có hai lần Lâm Văn P đưa cho Vy Đức D mỗi lần 100.000đồng để được sử dụng ma túy cùng những người khác, đến khoảng 15 giờ ngày 10/12/2018 Lâm Văn P gọi điện thoại cho Vy Đức D để hỏi mua 300.000đồng ma túy, khi đến điểm hẹn chưa kịp mua ma túy thì bị Công an bắt đưa về trụ sở làm việc; đối với những người làm chứng đều khai nhận được trực tiếp mua ma túy với Vy Đức D, cụ thể từng lần mua ma túy đúng như nội dung của bản cáo trạng.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vy Đức D phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy; căn cứ vào điểm b, c, i khoản 2 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Vy Đức D từ 08 năm đến 09 năm tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định đựng trong 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định; 01 túi vải màu đỏ kích thước 08 x 10cm; 01 chai nhựa có gắn vòi hút; tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đỏ đã qua sử dụng có số IMEI 354083094578802 của Vy Đức D, 01 điện thoại di động nhãn hiệu HUAWEI NOVA 3I màu xanh đã qua sử dụng có số IMEI 866345043375080 của Lâm Văn P do liên quan đến việc mua, bán ma túy; trả lại số tiền 537.000đồng cho bị cáo Vy Đức D do không liên quan đến hành vi phạm tội.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận, lời nói sau cùng bị cáo xin được giảm nhẹ mức hình phạt do có hai con còn nhỏ để sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, những người làm chứng và người chứng kiến, nhưng trước đó những người vắng mặt đã có lời khai tại cơ quan điều tra, việc vắng mặt không ảnh hưởng đến quá trình xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292, 293, 296 của Bộ luật Tố tụng hình sự để tiếp tục xét xử vụ án.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa không có ai có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thực hiện đều hợp pháp.

[3] Về trách nhiệm hình sự: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay đều phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, với lời khai của người tham gia tố tụng khác, phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở khẳng định: Từ đầu tháng 11 năm 2018 đến ngày 09/12/2018 tại quán internet T, địa chỉ đường N, phường T, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, Vy Đức D đã nhiều lần bán trái phép chất ma túy Mehtamphetamine hay còn gọi là ma túy đá, ngựa, đặc biệt vào đầu tháng 12/2018 Vy Đức D đã bán ma túy cho nhiều người, các lần phạm tội đều chưa bị cơ quan có thẩm quyền xử lý cụ thể: Đầu tháng 11 năm 2018 Vy Đức D bán cho Nguyễn Chí C 200.000đồng ma túy đá, ngựa; đầu tháng 12 năm 2018 Vy Đức D bán 02 lần ma túy đá cho Linh Quang P, mỗi lần 200.000đồng, bán cho Lâm Văn P 02 lần, mỗi lần 100.000đồng ma túy đá; Trưa ngày 07/12/2018 Vy Đức D tiếp tục bán cho Hoàng Ngọc Q 100.000đồng ma túy đá; Chiều ngày 08/12/2018 Vy Đức D bán cho Chu Hữu N 100.000đồng ma túy đá; sáng ngày 09/12/2018 Vy Đức D bán tiếp cho Chu Hữu N 100.000đồng ma túy đá. Đến 15 giờ 20 phút ngày 10/12/2018 tại quán internet T, Vy Đức D có hành vi mua với một người đàn ông không rõ tên, địa chỉ 1.100.000đồng ma túy đá, ngựa nhằm mục đích bán kiếm lời và sử dụng cho bản thân, số ma túy bị thu giữ gồm 71 viên nén màu hồng là ma túy Methamphetamine đựng trong túi nilon màu xanh có khối lượng là 6,824gam (đã trừ bì) và chất tinh thể màu trắng là ma túy Methamphetamine đựng trong túi nilon màu trắng có khối lượng là 0,180gam (đã trừ bì), tổng số ma túy Methamphetamine Vy Đức D đã mua ngày 10/12/2018 sau khi sử dụng còn lại có khối lượng là 7,004gam (đã trừ bì). Như vậy, hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ căn cứ để xác định bị cáo Vy Đức D phạm vào tội Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại điểm b, c, i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn truy tố bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, làm băng hoại đạo đức xã hội và là nguyên nhân phát sinh tệ nạn xã hội khác, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện để thỏa mãn nhu cầu bản thân và kiếm lời thu lợi bất chính nhằm tiêu sài cá nhân.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Vy Đức D đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân không tốt do đã từng bị kết án 02 lần cùng về tội cố ý gây thương tích vào năm 2012 và năm 2013, đều đã được xóa án tích; 02 lần bị xử phạt vi phạm hành chính, lần 1 năm 2008 về hành vi vận chuyển hàng hóa nhập lậu, lần 02 năm 2011 về hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản, đều đã được xóa.

[6] Với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo như trên, nhận thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định tương xứng với hành vi của bị cáo đã gây ra để giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình, xã hội và để phòng ngừa chung.

[7] Bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền với bị cáo.

[8] Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết lai lịch, địa chỉ nên cơ quan điều tra không có cơ sở làm rõ; Đối với Hoàng Ngọc Q, Nguyễn Đức P, Hoàng Ngọc T, Linh Quang P, Nguyễn Chí C, Lâm Văn P, Hoàng Văn Q và Chu Hữu N đều có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Công an thành phố Lạng Sơn đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính với các đối tượng trên, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Về việc xử lý vật chứng: Đối với số ma túy còn lại sau khi giám định được hoàn trả lại là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, tàng trữ, 01 túi vải màu đỏ kích thước 8x10cm là vật đựng ma túy, 01 chai nhựa có gắn vòi hút là công cụ để sử dụng ma túy đều cần tịch thu tiêu hủy; đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đỏ đã qua sử dụng có số IMEI 354083094578802 của bị cáo Vy Đức D và 01 điện thoại di động nhãn hiệu HUAWEI NOVA 3I màu xanh đã qua sử dụng có số IMEI 866345043375080 của Lâm Văn P xác định đều được sử dụng trong việc liên lạc mua, bán ma túy cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước; Đối với số tiền 537.000đồng thu giữ của bị cáo Vy Đức D, không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b, c, i khoản 2 Điều 251; 38, 50, điểm s khoản 1, điều 51, điểm a, c khoản 1 điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Vy Đức D phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

2. Xử phạt bị cáo Vy Đức D 08 (tám) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/12/2018.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì thư đã niêm phong đựng mẫu vật sau giám định (chất ma túy); 01 (một) túi vải màu đỏ kích thước 8cm x 10cm; 01 (một) chai nhựa có gắn vòi hút;

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 (một) 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đỏ đã qua sử dụng có số IMEI 354083094578802 ; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu HUAWEI NOVA 3I màu xanh đã qua sử dụng có số IMEI 866345043375080;

- Trả lại cho bị cáo Vy Đức D số tiền 537.000đ (năm trăm ba mươi bảy nghìn đồng).

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng 22/4/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lạng Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn và Ủy nhiệm chi ngày 17/4/2019).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Vy Đức D phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 95/2019/HS-ST ngày 19/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:95/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về