Bản án 95/2019/HS-ST ngày 09/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 95/2019/HS-ST NGÀY 09/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 09 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 92/2019/TLST-HS ngày 11 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 96/2019/QĐXXST-HS ngày 26/7/2019, đối với bị cáo:

Lương Quang D, sinh ngày 06/3/1984, tại tỉnh Tuyên Quang. Nơi cư trú: Xóm Làng A, xã K, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn 12/12; tôn giáo: Không; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; con ông Lương Quang H và bà Hồ Thị Kh (đã chết); có vợ là Nông Thị Th và 01 con (sinh năm 2011); tiền sự: Không; tiền án: Ngày 03/10/2018 Tòa án nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang xử phạt 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (bị cáo chưa chấp hành bản án). Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/4/2019 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 09 giờ, ngày 25/4/2019, bị cáo Lương Quang D đi xe ô tô khách từ xã T, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang đến thị trấn Đ, huyện Đ.T, tỉnh Thái Nguyên mua của một người đàn ông lái xe ôm không biết tên tuổi, địa chỉ được 01 gói Heroine bọc ngoài bằng giấy màu trắng, với số tiền 200.000 đồng, sau khi mua được Heroine, bị cáo đi đến chỗ vắng người lấy một ít Heroine trong gói nhỏ vừa mua được ra sử dụng bằng hình thức tiêm chích vào cơ thể, số Heroine còn lại bị cáo cất giấu trong người, sau đó đi xe ô tô khách về xã T, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang lấy xe mô tô nhãn hiệu Honda Super biển kiểm soát 22H3-9700 (xe môtô của ông Lương Quang H bố đẻ của bị cáo) đi về nhà. Khoảng 15 giờ 00 phút cùng ngày, khi bị cáo đi đến khu vực tổ 17 (nay tổ 10), phường N, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang, thì bị tổ Công tác Công an thành phố Tuyên Quang phát hiện bắt quả tang, bị cáo đã tự giác giao nộp 01 gói Heroine vừa mua được. Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma tuý đối với bị cáo, kết quả (+) dương tính.

Ti Kết luận giám định số 325/GĐKTHS ngày 26/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Số bột vón cục màu trắng ngà thu giữ của Lương Quang D gửi giám định là chất ma tuý, loại Heroine, số thứ tự 09 thuộc danh mục IA nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/05/2018; khối lượng 0,154g (không phẩy một năm bốn gam).

Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 94/CT-VKSTP ngày 09 tháng 7 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Lương Quang D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Ti phiên tòa, kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lương Quang D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 56; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lương Quang D từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù. Tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” của bản án số 67/2018/HS-ST ngày 03/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; tịch thu tiêu hủy số Heroine đã thu giữ của bị cáo; tuyên quyền kháng cáo và buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật Trong quá trình điều tra, bị cáo Lương Quang D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục khai nhận tội, nội dung khai báo của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, không có tình tiết gì mới; bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định số 325/GĐKTHS ngày 26/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang; bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình.

Kết thúc phần tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố các Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng  hình sự, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Lương Quang D tiếp tục khai nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ; kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 15 giờ 00 phút ngày 25/4/2019, tại tổ 17 (nay tổ 10), phường N, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang, bị cáo Lương Quang D đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,154g (không phẩy một năm bốn gam) Heroine mục đích để sử dụng.

Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có hành vi cất giữ bất hợp pháp 0,154g Heroine (Là chất ma tuý, số thứ tự 09 thuộc danh mục IA nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/05/2018) mục đích để sử dụng; hành vi của bị cáo thực hiện với lỗi cố ý, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý. Do vậy Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định, cần chấp nhận.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Lần phạm tội này bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, làm ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh phòng, chống tội phạm và bài trừ tệ nạn ma tuý trên địa bàn thành phố Tuyên Quang. Trước khi phạm tội bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, xử phạt 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (tại bản án số 67/2018/HS-ST ngày 03/10/2018), bị cáo chưa đi chấp hành án nhưng tại tiếp tục phạm tội mới. Do vậy, cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung. Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử sẽ tổng hợp hình phạt của hai bản án theo quy định tại khoản 2 Điều 56 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo; khối lượng Heroine mà bị cáo tàng trữ cũng như tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy mức án mà Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập thường xuyên; không có tài sản gì có giá trị. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo đúng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang.

[6] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo, Công an thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang đã Quyết định xử phạt vi phạm hành chính (phạt tiền 750.000 đồng); đối với người đàn ông lái xe ôm, theo bị cáo khai nhận là người đã bán Heroine cho bị cáo vào ngày 25/4/2019 tại thị trấn Đại Từ, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, nhưng không xác định được tên tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về vật chứng: Đối với số Heroine còn lại (sau khi giám định) đã thu giữ của bị cáo được niêm phong trong 01 phong bì, là vật chứng của vụ án thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 2 Điều 56; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Lương Quang D phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Xử phạt bị cáo Lương Quang D 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Tổng hợp hình phạt với phần hình phạt chưa chấp hành: 01 (một) năm, 11 (mười một) tháng 21 (hai mươi mốt) ngày tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tại bản án số 67/2018/HS-ST ngày 03/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Buộc bị cáo Lương Quang D phải chấp hành hình phạt của hai bản án là 03 (ba) năm 02 (tháng) 21 (hai mươi mốt) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 25/4/2019.

2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tch thu 01 (một) phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, trên các mép dán có chữ ký của Lương Quang D, thành phần tham gia niêm phong và có 05 hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có chứa 0,134 gam Heroine.

Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Tuyên Quang và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang ngày 05/8/2019.

3. Căn cứ khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Lương Quang D phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Lương Quang D được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 95/2019/HS-ST ngày 09/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:95/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về