Bản án 95/2018/HSST ngày 23/10/2018 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 95/2018/HSST NGÀY 23/10/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Trong ngày 23 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 98/2018/TLST-HS ngày 26/9/2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 97/2018/QĐXXST-HS ngày 10/10/2018, đối với

Bị cáo: PHẠM ĐỨC V, sinh năm 1975. TQ: Phường M, quận K, TP Hải Phòng.

Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ học vấn: 6/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Con ông Phạm Đức C và bà Trần Thị B. Có vợ là Phạm Thị H và 1 con sinh năm 1998.

Tiền sự: Không;

Tiền án: Bản án số 28/2016/HSST ngày 10/8/2016 Tòa án quận Kiến An xửphạt 15 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 30 tháng về tội “Đánh bạc”

Nhân thân: Năm 1993, 1999, 2009 bị kết án về các tội Cướp tài sản, Đánh bạc và Cố ý gây thương tích, đã được xóa án tích.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/6/2018. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

Người chứng kiến: Anh Lê Văn P, sinh năm 1992, trú tại thôn R, xã P và ông Phạm Xuân H, sinh năm 1953, trú tại thôn L, xã N, huyện T, Thái Bình (đều vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 02/6/2018, Phạm Đức V điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Suzuki biển kiểm soát 16N4-6295 đến khu vực đường tàu thuộc quận Lê Chân, TP Hải Phòng mua 1 gói ma túy đá và 1 gói ma túy loại heroine với giá 2.000.000 đồng/gói của một người đàn ông khoảng 50 tuổi, không biết tên, địa chỉ rồi đi về nhà. Đến 11 giờ cùng ngày, V điều khiển xe môtô trên sang khu vực huyện Thái Thụy, Thái Bình tìm người mua ma túy. V dự định bán gói ma túy đá với giá 3.000.000 đồng và gói heroine giá 2.500.000 đồng. Khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, V đang dừng xe tại đường đê thuộc thôn L, xã N, Thái Thụy thì bị Tổ công tác Công an tỉnh Thái Bình phát hiện yêu cầu V về trụ sở Ủy ban nhân dân xã N để làm việc. Tại đây, trước sự chứng kiến của anh Lê Văn P và ông Phạm Xuân H, tổ công tác thu trong túi quần bên trái V 2 túi nilon trong đó: 1 túi bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục, niêm phong mẫu M1, 1 túi có chứa chất dạng tinh thể trong suốt, niêm phong mẫu số M2, thu trong túi quần bên phải 1 điện thoại di động Nokia màu đen. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, quản lý vật chứng. Cùng ngày Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của V nhưng không thu giữ gì.

Bản kết luận giám định số 202/KLGĐ-PC54 ngày 02/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Mẫu số M1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, khối lượng 2,0906 gam; Mẫu M2 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 4,0964 gam.

Tại bản cáo trạng số 95/CT-VKSTT ngày 24/9/2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy đã truy tố bị cáo Phạm Đức V về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Phạm Đức V đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi mang 2 túi ma túy đi bán nhưng chưa kịp bán đã bị bắt như trên.

Luận tội của Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm p khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50, Điểm h khoản 1 điều 52, Khoản 2 điều 56 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 7 năm 6 tháng đến 8 năm tù và tổng hợp với hình phạt 15 tháng tù của bản án số 28/2016/HSST ngày 10/8/2016 của Tòa án quận Kiến An; Không áp dụng hình phạt bổ sung, ngoài ra còn đề xuất việc xử lý vật chứng và buộc bị cáo phải chịu án phí.

Bị cáo không có ý kiến gì về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt, xử lý vật chứng và không tranh luận.

Nói lời sau cùng, bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của bản thân và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng; kết luận giám định số 202/KLGĐ-PC54 ngày 02/6/2018; Lời khai của những người chứng kiến - anh Lê Văn P và ông Phạm Xuân H cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[3] Bị cáo đã trên 18 tuổi, có đầy đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Bị cáo nhận thức được việc bán ma túy cho người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp.

[4] Hành vi của bị cáo đã xâm hại quyền quản lý độc quyền của nhà nước đối với các chất gây nghiện, làm phát tán ma tuý trong cộng đồng dân cư, làm gia tăng tệ nạn ma tuý, gây bức xúc trong nhân dân.

[5] Như vậy hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma tuý. Phạm Đức V đã bán 2 chất ma túy gồm Heroine có khối lượng 2,0906 gam và Methamphetamine có khối lượng 4,0964 gam, tổng là 6,187 gam ma túy vượt quá 5 gam nên đã phạm vào điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Việc đưa vụ án ra xét xử và xử bị cáo mức hình phạt tương xứng là cần thiết để cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người lương thiện, để răn đe, đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung. 

Điều 251. Tội mua bán trái phép chất ma túy

"1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: … 

i) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam; …

p) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm h đến điểm o khoản này; …”

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

[6] Bị cáo thành khẩn khai nhận; bố đẻ của bị cáo tham gia kháng chiến chống Mỹ được tặng huy chương kháng chiến hạng Nhì, ông nội bị cáo là liệt sỹ nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo có 1 tiền án nên bị áp dụng 1 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[7] Bị cáo phạm tội trong thời gian thử thách của bản án số 28/2016/HSST ngày 10/8/2016. Tòa án quận Kiến An xử phạt 15 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 tháng về tội “Đánh bạc”. Do vậy cần buộc bị cáo chịu hình phạt 15 tháng tù của bản án trước theo khoản 5 điều 65 và tổng hợp với hình phạt của bản án này theo khoản 2 điều 56 Bộ luật hình sự.

[8] Bị cáo mua bán ma túy là để thu tiền lời, lẽ ra phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, song do kinh tế gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo không có tài sản đáng kể nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Ma túy thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

Chiếc điện thoại của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội, cần trả lại cho bị cáo. [10] Đối với người đàn ông bán ma túy cho V, do V không biết tên, địa chỉ của người này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, xử lý.

[11] Chiếc xe môtô biển kiểm soát 16N4 - 6295, thu giữ của Phạm Đức V, V khai mua của một người bán đồng nát không biết tên tuổi, địa chỉ. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng chưa rõ nguồn gốc nên tiếp tục xác minh, xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm p khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, các điều 38, 50, khoản 5 điều 65, khoản 2 điều 56 Bộ luật hình sự; Khoản 1, 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/UBTVQH ngày 30/12/2016 về án phí lệ phí tòa án;

1. Về tội danh: Bị cáo Phạm Đức V phạm tội "Mua bán trái phép chất ma tuý".

2. Về hình phạt: Tuyên phạt bị cáo Phạm Đức V 7 (bảy) năm 6 (sáu) tháng tù. Tổng hợp vơia 15 tháng tù của bản án số 28/2016/HSST ngày 10/8/2016 của Tòa án nhân dân quận Kiến An - Hải Phòng, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 8 (tám) năm 9 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, ngày 02/6/2018.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu huỷ toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định, mẫu A1, A2.

- Trả lại bị cáo 1 điện thoại di động Nokia.

Các đồ vật, tài sản trên có đặc điểm ghi trong biên bản giao nhận vật chứng tại Chi cục Thi hành án huyện Thái Thụy ngày 24/9/2018.

4. Về án phí: Bị cáo Phạm Đức V phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 23/10/2018./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

268
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 95/2018/HSST ngày 23/10/2018 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:95/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về