TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẢO LỘC - TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 94/2021/HS-ST NGÀY 28/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 28 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 95/2021/TLST-HS ngày 21 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 101/2021/QĐXXST- HS ngày 17 tháng 6 năm 2021, đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Hoàng Nguyễn Đình V, sinh năm: 1998 tại Lâm Đồng; hộ khẩu thường trú và cư trú: Tổ 13, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 06/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Đình Q (đã chết) và bà Nguyễn Thị N, sinh năm: 1964 hiện cư trú tại phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng; bị cáo là con duy nhất trong gia đình; vợ, con: chưa có; tiền sự: Không;
- Tiền án: Ngày 12/12/2017, bị Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo Bản án số 107/2017/HSST. Chấp hành xong án phạt tù ngày 31/07/2018, tuy nhiên chưa thực hiện nghĩa vụ bồi thường dân sự.
- Nhân Thân: Ngày 18/07/2017, bị Công an phường B’Lao, thành phố Bảo Lộc xử phạt 2.000.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 28, đã nộp phạt ngày 19/07/2017.
Bị cáo bị truy nã và bắt tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Bảo Lộc từ ngày 06/02/2021 đến nay, có mặt.
2. Họ và tên: Nguyễn Anh T, tên gọi khác: Tư già, sinh năm: 1998 tại Lâm Đồng; hộ khẩu thường trú và cư trú: Tổ 12, phường S, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 05/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H, sinh năm: 1969 và con bà Nguyễn Thị Trưng Đ, sinh năm 1977, hiện cư trú tại tổ 12, phường S, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng; gia đình có 03 anh em ruột, lớn nhất sinh năm 1996, bị cáo là con nhỏ nhất trong gia đình; vợ: Nguyễn Thị Bảo T, sinh năm: 2000; con: có 01 con sinh năm 2016 hiện cùng cư trú tại tổ 12, phường S, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng; tiền án, tiền sự: Không.
Nhân Thân: Ngày 21/3/2014, bị Công an thành phố Bảo Lộc xử phạt vi phạm hành chính cảnh cáo về hành vi Trộm cắp tài sản, theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 19/QĐ-XPHC.
Bị cáo tại ngoại, có mặt.
3. Họ và tên: Huỳnh Đức H, sinh năm: 1998 tại Lâm Đồng; hộ khẩu thường trú và cư trú: Số 273/8 đường 1/5, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 07/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Đức N, sinh năm 1970 và con bà Thái Thị Hồng Đ, sinh năm 1976, hiện cư trú tại phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng; gia đình có 03 anh em ruột, lớn nhất sinh năm 1996, nhỏ nhất sinh năm 2007, bị cáo là con thứ 2 trong gia đình; vợ, con: chưa có; tiền sự: Không.
- Tiền án: Ngày 12/12/2017, bị Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo Bản án số 107/2017/HSST. Chấp hành xong án phạt tù ngày 31/07/2018, tuy nhiên chưa thực hiện nghĩa vụ bồi thường dân sự.
- Nhân thân: Ngày 18/07/2017, bị Công an phường B’Lao, thành phố Bảo Lộc xử phạt 2.000.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 26, đã nộp phạt ngày 19/07/2017.
Bị cáo tại ngoại, có mặt.
Bị hại:
1. Ông Hoàng Văn C, sinh năm: 1965; nơi cư trú: Số 02/29 đường P, tổ 10, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.
2. Anh Phạm Huy T1, sinh năm: 1994; nơi cư trú: Số 59/46/3 đường H, tổ 3A, phường T, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt nhưng có đơn xin vắng mặt.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Xuân H1, sinh năm: 2002; nơi cư trú: Số 238 đường 1/5, tổ 13, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.
Người làm chứng: Bà Đào Thị O, sinh năm: 1970; nơi cư trú: Số 92 đường T, phường 1, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hoàng Nguyễn Đình V và Huỳnh Đức H là các đối tượng đang có tiền án về tội Trộm cắp T sản, vào các ngày 02/10/2020 và 31/12/2020, Hoàng Nguyễn Đình V đã 02 lần trộm cắp tài sản trên địa bàn Bảo Lộc cùng với Nguyễn Anh T và Huỳnh Đức H, cụ thể:
- Lần thứ nhất: Vào tối ngày 01/10/2020, V và T bàn bạc nhau đi xuống khu vực hồ sinh thái thuộc tổ 4, phường Lộc Sơn, thành phố Bảo Lộc để trộm cắp tài sản. Khoảng 02 giờ sáng ngày 02/10/2020, T lấy xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh, biển số 49S1-6994 chở V đi đến khu vực hồ sinh thái, thấy trong vườn nhà ông Hoàng Văn C tại số 02/29 Phạm Phú Thứ, tổ 10, phường B’Lao, thành phố Bảo Lộc có 01 chòi canh không có người trông coi nên V đứng ngoài cảnh giới còn T dùng 01 con dao phát (lấy được phía ngoài cửa chòi) phá khóa đi vào trộm cắp 03 cuộn dây kẽm gai chưa qua sử dụng (có trọng lượng 48kg, 49kg và 50kg) đưa ra ngoài. Sau đó, T và V sử dụng 01 chiếc xe rùa ở chòi canh chở 03 cuộn dây kẽm gai trộm cắp nêu trên đưa lên xe mô tô BS: 49S1- 6994 cho V chở về nhà T cất giấu. Trên đường chở tài sản đi cất giấu thì V bị công an phường Lộc Sơn phát hiện.
Kết luận định giá tài sản số 137 ngày 05/10/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự xác định 03 cuộn dây kẽm gai mà V và T trộm cắp của ông Hoàng Văn C nêu trên có tổng trọng lượng là 147kg, trị giá 2.352.000đ.
- Lần thứ hai: Khoảng 13 giờ ngày 31/12/2020, V cùng H và Nguyễn Xuân H1 rủ nhau đi đến nhà anh Phạm Huy T1 tại số 59/46/3 Phan Ngọc Hiển, phường Lộc Tiến, thành phố Bảo Lộc bắt trộm gà bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Trên đường đi, V nhặt 01 bao tải màu xám đen đưa cho H1 để đựng gà. Khi tới tường phía sau nhà anh T1 thì H, V, H1 trèo tường đi vào sân sau nhà bắt được 05 con gà (02 con gà trống và 03 con gà mái), trọng lượng khoảng 1,5kg/con cho vào bao tải rồi cả nhóm trèo tường ra khỏi nhà anh T1. Sau đó, V và H đem số gà đã trộm cắp bán cho bà Đào Thị O được 350.000đ. Số tiền có được, H, V, H1 chia nhau tiêu xài cá nhân hết.
Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 11 ngày 18/01/2021 của Hội đồng định giá UBND thành phố Bảo Lộc xác định 05 con gà các đối tượng nêu trên trộm cắp của anh T1 trị giá 600.000đ.
Ngoài các lần trộm cắp nêu trên, vào đầu tháng 12/2020, H1, H còn trộm cắp của anh T1 01 con gà trọng lượng khoảng 1,5kg đem đến bãi đất trống trước nhà số 186/21/1A đường 1/5, phường B’lao, thành phố Bảo Lộc nướng ăn. Tại kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 40 ngày 08/03/2021 của Hội đồng định giá UBND thành phố Bảo Lộc xác định con gà trống trọng lượng 1,5kg nêu trên trị giá 120.000đ.
Về vật chứng:
- Đối với 03 cuộn dây kẽm gai Nguyễn Anh T và Hoàng Nguyễn Đình V trộm cắp, Cơ quan điều tra đã thu hồi và trả lại cho ông Hoàng Văn C.
- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh, biển số 49S1-6994 đứng tên chủ sở hữu Nguyễn Văn Hòa, sinh năm 1969, HKTT: Tổ 12, phường 1, Tp.Bảo Lộc. Ông Hòa không biết việc T sử dụng chiếc xe mô tô nêu trên thực hiện hành vi trộm cắp cùng V nên Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe cho ông Nguyễn Văn Hòa.
- Đối với 05 con gà mà V, H và H1 trộm cắp của anh Phạm Huy T1, chị Đào Thị O đã bán cho người khác nên Cơ quan điều tra không thu hồi được.
Về trách nhiệm dân sự:
- Ông Hoàng Văn C đã nhận lại T sản và không có yêu cầu gì về bồi thường dân sự.
- Anh Phạm Huy T1 yêu cầu các bị cáo bồi thường 720.000đ, đến nay các bị cáo chưa bồi thường.
Cáo trạng số: 97/CT-VKSBL ngày 21/5/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng truy tố Hoàng Nguyễn Đình V, Huỳnh Đức H và Nguyễn Anh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
Các bị cáo không thắc mắc, khiếu nại bản cáo trạng, khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng nêu. Bị cáo H khai trong thời gian chờ xét xử thì bị cáo đã bồi thường cho anh T1 số tiền 3.000.000đ, bị cáo không yêu cầu các bị cáo khác phải thanh toán lại số tiền mà bị cáo đã bồi thường thay. Các bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, xin Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.
Bị hại ông Hoàng Văn C trình bày: Ông đã nhận lại tài sản bị các bị cáo chiếm đoạt, ông không yêu cầu gì về dân sự, về hình phạt thì ông xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
Bị hại Phạm Huy T1 vắng mặt tại phiên tòa nhưng có văn bản thể hiện ý đã nhận đủ tiền bồi thường thiệt hại do mình bị cáo H bồi thường cho anh, anh không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường về dân sự nữa và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo H.
Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên bản cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Hoàng Nguyễn Đình V, Huỳnh Đức H và Nguyễn Anh T về tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Hoàng Nguyễn Đình V từ 15 đến 18 tháng tù.
Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Huỳnh Đức H từ 12 đến 15 tháng tù.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Anh T từ 06 đến 09 tháng tù.
Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.
Về vật chứng: Cơ quan điều tra đã xử lý đúng theo quy định của pháp luật nên không đề cập đến.
Về trách nhiệm dân sự: Hiện nay không ai có yêu cầu gì nên không xem xét đến.
Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Bảo Lộc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bảo Lộc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh: Xét lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai của các bị cáo tại giai đoạn điều tra, lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 02 giờ sáng ngày 02/10/2020, Hoàng Nguyễn Đình V và Nguyễn Anh T đã có hành vi trộm cắp 03 cuộn dây kẽm gai chưa qua sử dụng (có trọng lượng 48kg, 49kg và 50kg) của ông Hoàng Văn C tại số 02/29 Phạm Phú Thứ, tổ 10, phường B’Lao, thành phố Bảo Lộc có tổng trị giá 2.352.000đ. Tiếp đến khoảng 13 giờ ngày 31/12/2020, Hoàng Nguyễn Đình V cùng Huỳnh Đức H và Nguyễn Xuân H1 đã thực hiện hành vi trộm cắp 05 con gà (02 con gà trống và 03 con gà mái), trọng lượng khoảng 1,5kg/con của anh Phạm Huy T1 tại số 59/46/3 Phan Ngọc Hiển, phường Lộc Tiến, thành phố Bảo Lộc có tổng trị giá 600.000đ.
Ngoài ra, vào đầu tháng 12/2020, Huỳnh Đức H và Nguyễn Xuân H1 còn trộm cắp 01 con gà trọng lượng khoảng 1,5kg của anh Thanh có trị giá 120.000đ. Như vậy, Hoàng Nguyễn Đình V 02 lần trộm cắp T sản với tổng giá trị T sản chiếm đoạt là 2.952.000đ; Huỳnh Đức H 02 lần trộm cắp T sản với tổng giá trị T sản chiếm đoạt là 720.000đ và Nguyễn Anh T 01 lần trộm cắp T sản với giá trị T sản chiếm đoạt là 2.352.000đ. Trong khi, bị cáo Hoàng Nguyễn Đình V và Huỳnh Đức H đang có tiền án về tội Trộm cắp tài sản. Mặt khác, các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý, nhận thức rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm nhưng vẫn thực hiện, mục đích bán lấy tiền tiêu xài cá nhân.
Vì vậy, hành vi nêu trên của bị cáo Hoàng Nguyễn Đình V, Huỳnh Đức H và Nguyễn Anh T phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bảo Lộc đã truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[3] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:
- Nhân thân: Các bị cáo đều có nhân thân xấu.
- Tình tiết tăng nặng: Bị cáo Hoàng Nguyễn Đình V bị áp dụng tình tiết tăng nặng là “Phạm tội 02 lần trở lên” và “Tái phạm” theo quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Nguyễn Anh T phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Huỳnh Đức H đã bồi thường toàn bộ thiệt hại nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[4] Về vai trò của các bị cáo: Mặc dù, các bị cáo cùng nhau thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nhưng không có sự bàn bạc, phân công nhiệm vụ cụ thể nên chỉ là đồng phạm giản đơn và có vai trò ngang nhau.
[5] Về hình phạt chính: Tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự về tội Trộm cắp T sản quy định:
“ Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
...
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”.
Xét hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện thái độ coi thường pháp luật, các bị cáo đều có sức khỏe nhưng lười lao động, muốn thỏa mãn nhu cầu cho bản thân nên đi trộm cắp tài sản. Hành vi của các bị cáo không những xâm phạm đến tài sản của người khác mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương. Mặt khác, các bị cáo đều có nhân thân xấu, bị cáo V và H đang có tiền án về tội trộm cắp tài sản; ngoài ra bị cáo V sau khi phạm tội còn bỏ trốn bị bắt theo lệnh truy nã. Vì vậy, cần có mức án nghiêm khắc và phải xử tù có thời hạn, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để các bị cáo có điều kiện tu dưỡng, rèn luyện thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[6] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự về tội Trộm cắp tài sản quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Xét các bị cáo không có thu nhập nên miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.
[7] Về vật chứng: Cơ quan điều tra đã xử lý đúng nên không đề cập đến.
[8] Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo Hoàng Nguyễn Đình V và Huỳnh Đức H đã trộm cắp tài sản của anh Phạm Huy T1 có tổng giá trị 720.000đ. Tuy nhiên bị cáo H đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho anh Thanh. Hiện nay anh T1, ông C không có yêu cầu gì về dân sự; bị cáo H cũng không yêu cầu các bị cáo khác phải thanh toán lại số tiền đã bồi thường thay nên Hội đồng xét xử không xem xét đến.
[9] Về các vấn đề khác:
- Đối với Nguyễn Xuân H1 tham gia trộm cắp cùng Hoàng Nguyễn Đình V và Huỳnh Đức H với tổng giá trị T sản trộm cắp là 720.000đ. Tuy nhiên, bản thân H1 chưa có tiền án, tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản và giá trị tài sản trộm cắp chưa đủ định lượng xử lý hình sự nên Cơ quan điều tra Công an thành phố Bảo Lộc đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp tài sản của H1 là thỏa đáng.
- Đối với bà Đào Thị O là người mua gà của Huỳnh Đức H và Nguyễn Xuân H1 nhưng bà O không biết đây là tài sản do H, H1 phạm tội mà có. Do đó Cơ quan điều tra không xem xét trách nhiệm hình sự đối với bà O là đúng.
- Đối với ông Nguyễn Văn Hòa là chủ sở hữu chiếc xe mô tô biển số 49S1-6994, xét thấy ông Hòa không biết việc bị cáo V, T sử dụng chiếc xe nêu trên để thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra không xem xét trách nhiệm hình sự đối với ông Hòa là đúng.
[10] Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[11] Về ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố các bị cáo Hoàng Nguyễn Đình V, Huỳnh Đức H và Nguyễn Anh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Hoàng Nguyễn Đình V 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06/02/2021.
Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Huỳnh Đức H 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Anh T 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.
2. Về án phí: Áp dụng các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Buộc các bị cáo Hoàng Nguyễn Đình V, Huỳnh Đức H và Nguyễn Anh T, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm; bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết bản án.
Bản án 94/2021/HS-ST ngày 28/06/2021 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 94/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về