Bản án 94/2020/HS-ST ngày 25/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Q, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 94/2020/HS-ST NGÀY 25/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang, mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 95/2020/TLST- HS ngày 10 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 91/2020/QĐXXST-HS, ngày 11 tháng 9 năm 2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: TRẦN VĂN L, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1964, tại tỉnh Tuyên Quang:

Nơi đăng ký HKTT, chỗ ở: Thôn C, xã H, huyện S, tỉnh Tuyên Quang.

Nghề nghiệp: Công nhân nghỉ hưu; Trình độ học vấn: 7/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông Trần Văn L (Đã chết) và con bà Bùi Thị N (Đã chết).

Anh, chị, em ruột: Có 06 người, bị cáo là thứ ba.

Vợ: Vũ Thị T, sinh năm 1966:

Con: Có 02 người con; con lớn nhất sinh năm 1991, con nhỏ nhất sinh năm 1998:

TiÒn án, tiền sự: Không. Nhân thân:

- Ngày 30/12/2002 Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh nhau, phạt 50.000 đồng (đã nộp phạt).

- Ngày 21/02/2011, Công an huyện S, tỉnh Tuyên Quang, xử phạt vi phạm hành chính tại Quyết định số 68 về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy (tàng trữ 0,011g Heroine), phạt 1.000.000 đồng (đã nộp phạt).

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/5/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang - Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

TRẦN VĂN L, cư trú tại Thôn C, xã H, huyện S, tỉnh Tuyên Quang, là người nghiện ma túy từ trước nên khoảng 08 giờ ngày 11/5/2020, Liên điều khiển xe môtô hai bánh Biển kiểm soát 22H6 - 6088 (xe môtô này L mượn của chị Vũ Thị T là vợ của L, nhưng chị T không biết L đi đâu, làm gì) đi từ nhà ra khu vực Cầu vượt, thuộc phường H, thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang, mục đích tìm mua Heroine để bản thân sử dụng. Tại khu vực Cầu vượt, L gặp và mua được 01 gói nhỏ Heroine gói ngoài bằng nilon màu vàng, tiếp đến là lớp giấy bạc màu trắng, của 01 người phụ nữ không biết tên tuổi, địa chỉ, với số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng). Gói Heroine vừa mua được L cầm vào trong lòng bàn tay trái và điều khiển xe môtô đi về nhà. Khi L đi đến khu vực tổ 7, phường H, thành phố Q, thì bị Tổ công tác Công an thành phố Q phối hợp với Công an phường H, phát hiện, bắt quả tang vào hồi 08 giờ 55 phút cùng ngày, thu giữ của Liên 01 gói nhỏ Heroine.

Tại Kết luận giám định số 394/KLGĐHS ngày 13/5/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Số chất bột vón cục màu trắng ngà thu giữ của TRẦN VĂN L gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine (Hêrôin); khối lượng 0,251g (Không phẩy hai năm một gam).

Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với TRẦN VĂN L, kết quả (+) dương tính có chất ma túy trong cơ thể. Liên khai nhận ngày 08/5/2020 đã sử dụng ma túy.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 phong bì niêm phong trên các mép dán có chữ ký của TRẦN VĂN L, chữ ký của thành phần tham gia niêm phong, 05 hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có 0,231 gam Heroine (số Heroine còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định) là vật chứng của vụ án. Tạm giữ 01 xe môtô hai bánh Biển kiểm soát 22H6 - 6088, ngày 03/8/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Q đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại xe môtô này cho chị Vũ Thị T, là chủ sở hữu hợp pháp, vì chị T không biết việc L mượn xe để đi mua Heroine về sử dụng, nên không đề cập xử lý.

Tại Cơ quan điều tra, TRẦN VĂN L đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Hành vi phạm tội của Liên còn được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; vật chứng thu giữ; Kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Bản Cáo trạng số: 96/CT-VKSTP, ngày 09 tháng 9 năm 2020, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang, đã truy tố TRẦN VĂN L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo L tiếp tục khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với mục đích để bản thân sử dụng chứ không bán cho ai, nhưng khi đang cầm ma túy loại Heroine trên tay đi về nhà thì bị phát hiện và bắt giữ. Bị cáo có trực tiếp chứng kiến niêm phong và mở niêm phong 01 phong bì ma túy đã thu giữ của bị cáo. Bị cáo không có ý kiến gì về kết quả giám định ma tuý trong 01 phong bì đựng ma túy đã thu giữ của bị cáo và không yêu cầu giám định lại; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang, đã truy tố bị cáo là đúng tội, không oan.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên luận tội giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo TRẦN VĂN L và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố: Bị cáo TRẦN VĂN L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

- Xử phạt: Bị cáo TRẦN VĂN L từ 01 (Một) năm 02 (Hai) tháng đến 01 (Một) năm 05 (Năm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 11/5/2020.

Bị cáo là người nghiện ma túy và không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

+ Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong bên trong có chứa chất ma túy loại Heroine.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Bị cáo L không có ý kiến tranh luận gì với nội dung luận tội của Kiểm sát viên. Bị cáo xin Hội đồng xét xử xử phạt mức án nhẹ nhất để sớm về với gia đình.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên; của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Như vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai tại Cơ quan Cảnh sát điều tra; phù hợp với vật chứng đã thu giữ; Kết luận giám định, nên có đủ cơ sở kết luận: Hồi 08 giờ 55 phút ngày 11/5/2020, tại khu vực tổ 7, phường H, thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang, TRẦN VĂN L, cư trú tại Thôn C, xã H, huyện S, tỉnh Tuyên Quang, có hành vi tàng trữ trái phép 0,251g (Không phẩy hai năm một gam) Heroine, mục đích để sử dụng, thì bị Tổ công tác Công an thành phố Q phối hợp với Công an phường H, thành phố Q, phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Bị cáo L đã tàng trữ 0,251g (Không phẩy hai năm một gam) ma tuý loại Heroine là thuộc trường hợp tàng trữ Heroine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang, truy tố TRẦN VĂN L về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo L nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật; việc sử dụng ma tuý trái phép có ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của bản thân và kinh tế gia đình, gây mất trật tự ở địa phương, góp phần làm gia tăng tệ nạn sử dụng trái phép chất ma tuý ở địa phương, nhưng bị cáo vẫn cố ý sử dụng ma tuý trái phép dẫn đến tàng trữ trái phép chất ma tuý. Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng do lỗi cố ý, nên cần xử phạt bị cáo nghiêm minh theo quy định của pháp luật và cần buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo cũng như phục vụ công tác phòng chống tội phạm chung.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo L không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét thấy bị cáo Liên tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Ngoài ra bố đẻ của bị cáo L là ông Trần Văn L được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhì, nên đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khác quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để áp dụng cho bị cáo Liên.

Do vậy, xử phạt bị cáo L mức án như Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Q, đề nghị tại phiên tòa là phù hợp và có căn cứ pháp luật.

Bị cáo L là người nghiện ma túy và không có tài sản, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định của pháp luật.

[4] Về vật chứng: 01 (Một) phong bì đựng ma túy loại Heroine đã niêm phong. Xét thấy đây là vật cấm lưu hành trái phép, nên tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[5] Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo Liên thì ngày 10/6/2020, Công an thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang, đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 2337/QĐ-XPHC bằng hình thức Cảnh cáo là có căn cứ pháp luật, nên không xem xét, giải quyết.

[6] Đối với người phụ nữ theo L khai nhận là người đã bán Heroine cho L vào ngày 11/5/2020 tại khu vực Cầu vượt, thuộc phường H, thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang, nhưng không xác định được tên tuổi, địa chỉ của người phụ nữ này, nên không có căn cứ để xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật.

Bị cáo L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo TRẦN VĂN L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Xử phạt: Bị cáo TRẦN VĂN L 01 (Một) năm 02 (Hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 11 tháng 5 năm 2020.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) phong bì niêm phong trên các mép dán có chữ ký của TRẦN VĂN L, chữ ký của thành phần tham gia niêm phong, 05 (Năm) hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có 0,231g (Không phẩy hai ba một gam) Heroine (số Heroine còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định).

Tình trạng vật chứng trên như Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Q với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang lập ngày 18/9/2020.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo TRẦN VĂN L phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

- Bị cáo TRẦN VĂN L được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 94/2020/HS-ST ngày 25/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:94/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về