Bản án 94/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HOÀNG MAI, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 94/2019/HS-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 11 năm 2019,tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 91/2019/TLST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 170/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần B; Sinh ngày 15 / 12 / 1996, tại thị xã H, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: xóm 11, xã Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An.

Nơi ĐKNKTT: xóm 11, xã Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học phổ thông: 9/12;

Con ông: Trần H, sinh năm 1974; Con bà: Vũ Thị L, sinh năm 1975; Anh chị em ruột: có 2 người, bị cáo là con đầu;

Vợ: Nguyễn Thị T, có 01 con, sinh năm 2019.

-Tiền án: Ngày 23/11/2018, bị TAND quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội Trộm cắp TS.

-Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/10/2019, hiện đang tạm giam, Có mặt

*Bị hại: chị Vũ Thị M, sinh ngày 12/6/2003, Địa chỉ: Khối Q, phường Q, thị xã H, Nghệ An

* Người đại diện của người bị hại: có bố mẹ đẻ là:

Ông Vũ Văn H, sinh năm 1979 và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1983.

Địa chỉ: Khối Q, phường Q, thị xã H, Nghệ An

* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Ông Phạm Văn Hà, trợ giúp viên pháp lý,

Địa chỉ: Chi nhánh trợ giúp pháp lý số 1, Trung tâm TGPLNN tỉnh Nghệ An.

Ông Hà có mặt; Chị M, ông H và bà Đ đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ 30 phút, ngày 19/9/2019, chị Vũ Thị M đến sạc nhờ điện thoại tại nhà bà Hoàng Thị Th, sinh năm 1978,(thuộc khối Q, phường Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An). Bà Th là mẹ vợ củaTrần B.Trần B đến chơi và ngủ lại nhà bà Th. Đến khoảng 08 giờ 30 phút cùng ngày,Trần B ngủ dậy đi ra gian phòng khách và thấy một chiếc điện thoại đang sạc trên tủ bàn thờ. B quan sát không có ai ở nhà nên đã lấy chiếc điện thoại cất vào túi quần mình rồi điều khiển xe mô tô về nhà B tại xóm 11, xã Q.

Sau khi phát hiện bị mất điện thoại, chị M dò tìm và biết được là doTrần B lấy trộm, nhưng hỏi thì B không chịu trả mà yêu cầu chị M phải chuộc. Nên chị M trình báo Công an.

Ngày 06/10/2019,Trần B đến Công an phường Quỳnh Phương, thị xã Hoàng Mai xin đầu thú về hành vi trộm cắp của mình và giao nộp chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S plus màu trắng vàng, trộm tại nhà chị Th.

Ngày 08/10/2019 Hội đồng định giá tài sản của UBND thị xã Hoàng Mai kết luận: Một chiếc điện thoại di động cũ nhãn hiệu Iphone 6S plus màu trắng vàng, có giá trị tại thời điểm bị chiếm đoạt là: 4.000.000đồng (Bốn triệu đồng).

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra Công an thị xã Hoàng Mai đã giao trả chiếc điện thoại nói trên cho chị Vũ Thị M. Chị Vũ Thị M đã nhận lại tài sản bị mất không có yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoàng Mai, số 94 /CT-VKS-HM ngày 11/11/2019, Truy tố ra trước Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai,Nghệ An để xét xử:Trần B về tội: Trộm cắp tài sản, theo khoản 1 điều 173 BLHS 2015.

*Tại phiên tòa:

-Kiểm sát viên giữ nguyên toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu. Đề nghị HĐXX: Áp dụng khoản 1 điều 173; điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 56; Điều 55 và Điều 65 BLHS 2015. Xử phạt Trần B từ 09 đến 12 tháng tù về tội trộm cắp tài sản.

Tổng hợp hình phạt 12 tháng tù cho hướng án treo của TAND quận Nam Từ Liêm, Hà Nội. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 2 bản án là từ 21 đến 24 tháng tù.

- Ông Phạm Văn Hà trình bày: Nhất trí như đề nghị của Kiểm sát viên về tội danh và hình phạt đối với bị cáo Trần B. Theo tài liệu có tại hồ sơ, bị hại có đơn đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Nhưng bị hạị là người dưới 18 tuổi, cần được quan tâm bảo vệ. Đề nghị HĐXX xem xét để có quyết định hình phạt phù hợp.

- Bị cáo hoàn toàn khai nhận hành vi phạm tội của mình và thiệt hại xảy ra. Đề nghị được chiếu cố giảm nhẹ mức án để sớm được về với gia đình, làm ăn lương thiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Vụ án hình sự Trần B trộm cắp tài sản xẩy ra sau thời điểm 00 giờ 00 phút ngày 01/01/2018 (Thời điểm có hiệu lực thi hành Bộ luật hình sự 2015). Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát tiến hành tố tụng vụ án theo quy định của BLTTHS 2015. Trình tự thủ tục tố tụng đảm bảo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án là hợp pháp.

[2] Về việc áp dụng bộ luật hình sự: Kết luận đề nghị của cơ quan điều tra; Kết luận truy tố của Viện kiểm sát,và Quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án dựa theo quy định tại Bộ luật hình sự 2015 là đúng pháp luật.

[3] HĐXX đã làm rõ được diễn biến vụ án như nội dung tóm tắt vụ án đã nêu trên. Qua đó cho thấy:

Lời khai của bị cáoTrần B tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp về thời gian, địa điểm, quá trình thực hiện hành vi phạm tội, đặc điểm của tài sản là đối tượng của tội phạm; phù hợp với nội dung tài liệu vụ án của cơ quan điều tra Công an thị xã Hoàng Mai. Nên có cơ sở kết luận: Bị cáo Trần B lợi dụng sơ hở, lén lút chiếm đoạt 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S plus của chị Vũ ThịM, trị giá: 4.000.000đồng.

Với những chứng cứ hành vi củaTrần B, và giá trị thiệt hai tài sản đã phân tích nêu trên, có căn cứ khẳng định: Trần B ph¹m téi: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản Điều 173 BLHS 2015,­ VKSND thị xã Hoàng Mai truy tố.

[4] Hành vi phạm tội của Trần B là liều lĩnh, coi thường pháp luật, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác đang được pháp luật hình sự bảo vệ, làm mất trật tự trị an và gây tâm lý hoang mang lo lắng cho nhân dân địa phương. Nên cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo,để răn đe giáo dục người phạm tội phạm nói riêng cũng như phòng ngừa tội phạm nói chung.

Xét về tính chất, nguyên nhân điều kiện phạm tội: Do tính tham lam muốn hưởng thụ tài sản mà không đổ công sức, nên khi có cơ hội Trần B thực hiện ngay hành vi phạm tội. Thiệt hại của chị Vũ ThịM trong vụ án là doTrần B gây ra. Nên bị cáo phải chịu xử lý theo quy định của pháp luật.

+Bị cáoTrần B có tình tiết tăng nặng hình sự. Ngày 23/11/2018, bị TAND quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội Trộm cắp TS, chưa được xóa án tích, nên phạm tội lần này thuộc trường hợp: Tái phạm.

+Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là:

- Phạm tội gây thiệt hại không lớn;

-Thành khẩn khai báo,ăn năn hối cải;

-Tự nguyện giao nộp lại tài sản chiếm đoạt, coi như bồi thường thiệt hại.

-Tự nguyện đầu thú; Người bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt.

- Ngoài ra còn chiếu cố cho bị cáo để thể hiện sự khoan hồng của nhà nước ta đối với người phạm tội là: Hành vi phạm tội tính chất đơn giản, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.

- Bị cáo phạm tội mới trong thới gian thử thách án treo, nên phải tổng hợp hình phạt của 2 bản án theo quy định tại điều 55; 56; 65 BLHS.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Người bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho chị M và theo tài liệu có tại hồ sơ: Chị M nhất trí đã được nhận lại tài sản đầy đủ, không yêu cầu gì thêm. Nên miễn xét.

[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 173; điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 2 Điều 56; điểm a khoản 1 Điều 55 và khoản 5 Điều 65 BLHS 2015. Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Nghị Quyết 326/2016/QH14.

Xử phạt Trần B 09 ( Chín) tháng tù, về tội: Trộm cắp tài sản. Tổng hợp với 12 tháng tù cho hưởng án treo tại bản án số 303/2018/HSST của TAND quận Nam Từ Liêm, Hà Nội. Buộc bị cáoTrần B phải chấp hành hình phạt chung của 2 bản án là 21(Hai mốt) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 06/10/2019.

* Về án phí: Bị cáoTrần B phải chịu 200.000đồng án phí HSST.

* Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án: Bị cáo, Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An. Bị hại và người đại diện của bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 94/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:94/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hoàng Mai - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về