Bản án 94/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 94/2019/HS-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 11 năm 2019, tại Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 93/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 97/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 đối với các bị cáo:

1/ Phạm Văn S, sinh năm 1992; Tại: xã N, huyện Ng, tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn N 2, xã Ng, huyện Ng, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn D và bà Nguyễn Thị T; Có vợ là Đặng Thị H (đã ly hôn) và có 01 con; Tiền sự: Không; Tiền án: Không. Nhân thân: Ngày 13/11/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị Công an huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa bắt tạm giữ từ ngày 12/8/2019 đến ngày 15/8/2019 chuyển tạm giam cho đến nay; Có mặt.

2/ Phạm Thị Th, sinh năm 1995; Tại: xã V, huyện V tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã V, huyện V, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn Th và bà Phạm Thị T; Có chồng là Vũ Đình Th và có 01 con; Tiền sự: Không; Tiền án: Không. Nhân thân: Ngày 13/11/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị Công an huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa bắt tạm giữ từ ngày 12/8/2019 đến ngày 15/8/2019 chuyển tạm giam cho đến nay; Có mặt.

Bị hại: Ông Nguyễn Viết Th - Sinh năm 1961 (vắng mặt)

Địa chỉ: Thôn Đ, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Hữu M - Sinh năm 1975 (vắng mặt)

Địa chỉ: Thôn 5, xã N, huyện N, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào tối ngày 11/8/2019 Phạm Văn S rủ Phạm Thị Th vào Bệnh viện Đa khoa huyện Hà Trung để trộm cắp tài sản. Cả hai đi bộ vào Bệnh viện nhưng không trộm cắp được tài sản, nên đã ngủ lại tầng 2 khoa Ngoại để ngày hôm sau tiếp tục tìm kiếm tài sản để trộm cắp. Sáng ngày 12/8/2019 cả hai đi xuống tầng 1 khoa sản tìm kiếm tài sản để trộm cắp. Sau đó S bảo Th ngồi ở ghế đá gần khoa sản để chờ, còn S đi tìm tài sản. Đi đến ghế đá phía tây khoa sản, S thấy ông Nguyễn Viết Th đi chiếc xe mô tô Wave RSX màu đen xám bạc BKS 36B2-138.50 đến dựng ở đây để đi lấy nước cho thợ, chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa. Thấy vậy S lại lên xe mở khóa rồi điều khiển xe chạy lại chở Th ra QL1A và chạy về huyện Nga Sơn, đến nhà anh Nguyễn Hữu M, S hỏi vay anh M số tiền 2.500.000đ và để lại chiếc xe mô tô vừa trộm cắp được lại làm tin. Khi anh M hỏi nguồn gốc chiếc xe thì Th nói là của người nhà và anh M đồng ý cho S vay tiền. S cầm tiền và đưa lại toàn bộ số tiền này cho Th, Th cầm và đưa lại cho S 600.000đ còn Th giữ 1.90.000đ. S đã sử dụng 400.000đ mua ma túy sử dụng còn lại 200.000đ, Th sử dụng số tiền trên mua 01 điện thoại di động Itel hết 170.000đ, tiêu sài hết 230.000đ còn lại 1.500.000đ.

Đến 16h30 ngày 12/8/2019 S và Th đến Công an huyện Nga Sơn đầu thú và khai nhận hành vi trộm cắp chiếc xe mô tô tại Bệnh viện huyện Hà Trung. Sau đó S giao nộp 200.000đ và Th giao nộp 1.500.000đ cùng chiếc điện thoại Itel.

Vật chứng thu giữ gồm: 01(một) xe máy hiệu Wave RSX màu đen xám bạc BKS 36B2-138.50; 01(một) điện thoại di động Itel màu đen và 1.700.000đồng.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 21/8/2019, Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Hà Trung đã kết luận: Chiếc xe mô tô mà S và Th trộm cắp có giá trị là 8.500.000đồng.

Tại bản cáo trạng số 96/CT-VKS-HT ngày 13/11/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá đã truy tố Phạm Văn S và Phạm Thị Th về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng: Khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt Phạm Văn S từ 12 tháng đến 15 tháng tù; xử phạt Phạm Thị Th từ 09 tháng đến 12 tháng tù; về vật chứng tịch thu tiêu hủy chiếc điện thoại, S trả lại số tiền cho anh M và không áp dụng hình phạt bổ sung là tiền đối với các bị cáo.

Các bị cáo biết hành vi phạm tội của mình là vi phạm phát luật, nên đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra huyện Hà Trung, Điều tra viên; Viện Kiểm sát huyện Hà Trung, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục và thời gian theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn S và Phạm Thị Th đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng Viện kiểm sát truy tố. Đối chiếu lời khai nhận của các bị cáo với lời khai của bị hại, người liên quan và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án là hoàn toàn phù hợp; Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 07 giờ 00 phút ngày 12/8/2019 lợi dụng không có người trông coi Phạm Văn S và Phạm Thị Th đã đã lén lút thực hiện việc trộm cắp tài sản là một chiếc xe mô tô Wave RSX màu đen xám bạc BKS 36B2-138.50 của ông Nguyễn Viết Thực có trị giá là 8.500.000đồng. Như vậy hành của các bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”.

Đối với anh Nguyễn Hữu M do không biết chiếc xe mô tô BKS 36B2-13850 là tài sản do trộm cắp mà có nên anh đã đồng ý cho S để lại chiếc xe làm tin khi cho S vay tiền. Sau khi biết được xe do phạm tội mà có anh đã giao nộp lại chiếc xe cho Cơ quan điều tra. Do vậy anh không có lỗi, nên không xem xét xử lý.

[3]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

Quyền sở hữu tài sản luôn được pháp luật bảo vệ nhưng S và Th đã không bỏ sức lao động chân chính để có được, lợi dụng việc vắng người và không có sự quản lý tài sản của chủ sở hữu nên cả hai đã lén lút trộm cắp chiếc xe mô tô Wave RSX màu đen xám bạc BKS 36B2-138.50 nhằm mục đích cầm cố lấy tiền chi tiêu cá nhân. Hành vi trộm cắp tài sản của các bị cáo là nguy hiểm, táo tợn, gây hoang mang tâm lý trong nhân dân và gây mất trật tự xã hội nên cần phải được xử lý nghiêm nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Là vụ án có hai bị cáo tham gia thực hiện hành vi phạm tội nhưng không có sự câu kết chặt chẽ nên chỉ là đồng phạm giản đơn. S là người rủ và trực tiếp thực hiện, Th là người giúp sức. Nên mức hình phạt S cao hơn Th.

[4]. Về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Tuy nhiên ngày 25/5/2019 S và Th trộm cắp chiếc xe mô tô tại Bệnh viện huyện Nga Sơn và ngày 13/11/2019 bị Tòa án huyện Nga Sơn xử phạt tù các bị cáo. Đây thể hiện sự xem thường pháp luật, không chịu làm ăn lương thiện. Do vậy cần xem xét khi quyết định hình phạt.

Tuy nhiên trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, sau khi phạm tội đã đầu thú. Nên cần áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo, để các bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật.

Căn cứ vào nhân thân, mức độ nguy hiểm của tội phạm. Nên cần xử cách ly các bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục là cần thiết.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định của pháp luật các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy, các bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập, không có tài sản riêng. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6]. Về trách nhiệm dân sự:

Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô Wave RSX màu đen xám bạc BKS 36B2-138.50 là của ông Nguyễn Viết Th. Hiện nay Cơ quan CSĐT Công an huyện Hà Trung đã trả lại cho ông Th và ông Th đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu đề nghị gì thêm nên miễn xét.

Đối với số tiền 2.500.000đ mà S vay của anh M. Anh M đề nghị S trả lại số tiền này cho anh. Xét thấy việc anh M cho vay tiền và nhận cầm cố chiếc xe mô tô, anh không biết S phạm tội mà có và do S là người vay và trực tiếp nhận tiền, nên cần buộc bị cáo S phải trả số tiền này cho anh M. Hiện nay S và Th đã giao nộp lại số tiền 1.700.000đ tại Cơ quan điều tra. Nên cần buộc S phải tiếp tục trả cho anh M số tiền 800.000đồng.

[7]. Về xử lý vật chứng: Đối với chiếc điện thoại di động Itel, Th đã mua với giá 170.000đ. Nhưng hiện nay đã cũ và không còn giá trị sử dụng, nên cần tịch thu và tiêu hủy.

[8]. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn S và Phạm Thị Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 17; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn S: 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt chấp hành án.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Thị Th: 12 (Mười hai) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt chấp hành án.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.

Buộc Phạm Văn S phải trả cho anh Nguyễn Hữu M số tiền 2.500.000đồng. Anh M được nhận lại 1.700.000đồng do S và Th giao nộp. (Hiện đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hà Trung theo biên lai thu tiền số 0000115 ngày 22/11/2019). Buộc S tiếp tục còn phải trả cho anh M số tiền 800.000đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ 01 điện thoại di động Itel màu đen, đã qua sử dụng.

(Hiện đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án huyện Hà Trung theo biên bản giao nhận ngày 22/11/2019).

4. Về án phí: Áp dụng: Khoản 2 Điều 136 Bộ Luật tố tụng hình sự; khoản 1, 3 Điều 21, điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, buộc bị cáo Phạm Văn S và Phạm Thị Th mỗi bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo Phạm Văn S phải chịu 300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, đối với S và Th kể từ ngày tuyên án, đối với ông Th và anh M kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 94/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:94/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về