Bản án 94/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN LÃNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 94/2019/HS-ST NGÀY 26/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 86/2019/TLST-HS ngày 07 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 93/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Vi Văn H, tên gọi khác: Không có; sinh ngày 09 tháng 03 năm 1977, tại huyện V, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn L, xã T1, huyện V, tỉnh Lạng Sơn; chỗ ở: Khu *, thị trấn N, huyện V, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 02/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vi Văn S và bà Đoàn Thị L (đều đã chết); có vợ là Liễu Thị S, sinh năm 1977 và có 02 con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2004; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Tại Bản án số 72/2013/HSST ngày 30/9/2013 Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, đã thi hành xong phần án phí ngày 30/12/2013, ngày 28/9/2015 chấp hành xong hình phạt, thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án tích, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý kỷ luật; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện V, tỉnh Lạng Sơn từ ngày 12/9/2019 đến nay. Có mặt.

- Người chứng kiến: Ông Nguyễn Mạnh H, sinh năm 1962. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày 10/9/2019, Vi Văn H một mình đón xe khách đi vào cửa khẩu T2 thuộc xã T2, huyện V, tỉnh Lạng Sơn mục đích mua ma túy mang về sử dụng. Đến nơi, Vi Văn H đi bộ theo đường mòn gốc nhãn lên đồi L thuộc thôn N, xã T2, huyện V, tỉnh Lạng Sơn gặp 01 người đàn ông Trung Quốc khoảng 21 tuổi (không biết họ tên, địa chỉ) bảo mua 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền ma túy. Vi Văn H đưa tiền, người đàn ông đó nhận tiền và đưa cho Vi Văn H 12 (mười hai) gói nhựa bên trong mỗi gói đều chứa chất ma túy heroine. Vi Văn H lấy 02 (hai) gói ma túy ra sử dụng ngay tại đấy, còn lại 10 (mười) gói ma túy cho vào trong 01 (một) vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu 555 rồi để vào túi quần bên trái đang mặc trên người rồi đi về quán cắt tóc của Vi Văn H tại khu *, thị trấn N, huyện V, tỉnh Lạng Sơn.

Sáng ngày 12/9/2019, Vi Văn H ở quán cắt tóc và số ma túy trên vẫn đang cất giấu trên người; đến khoảng 09 giờ 20 phút, tổ công tác Công an huyện Văn Lãng đang làm nhiệm vụ, kiểm tra, phát hiện trong túi quần bên trái Vi Văn H đang mặc có 01 (một) vỏ bao thuốc lá 555 bên trong có đựng 10 (mười) gói nhựa chứa chất bột màu trắng nghi là chất ma túy heroine. Tổ công tác đã đưa Vi Văn H cùng tang vật về trụ sở Ủy ban nhân dân thị trấn N, huyện V, tỉnh Lạng Sơn lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tổ công tác đã tạm giữ của Vi Văn H gồm: 01 (một) vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu 555, bên trong có chứa 08 (tám) gói nhựa màu cam và 02 (hai) gói nhựa màu hồng, trong mỗi gói nhựa đều chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy heroine được niêm phong trong 01 (một) phong bì thư ký hiệu bằng chữ viết tay “QT VI VĂN H”; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 (một) sim Vinaphone.

Tại Kết luận giám định số 327/KL-PC09 ngày 14/9/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng gửi giám định đều là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 0,280 gam (đã trừ bì).

Tại bản Cáo trạng số 88/CT-VKS ngày 06/11/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Vi Văn H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Vi Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Vi Văn H từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù giam. Bị cáo là người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, không có tài sản riêng có giá trị nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được để trong một phong bì thư niêm phong ký hiệu bằng chữ viết tay “QT VI VĂN H” và toàn bộ vỏ bao gói là vật nhà nước cấm lưu hành và vật không còn giá trị sử dụng. Trả lại cho bị cáo Vi Văn H 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 (một) sim Vinaphone là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Vi Văn H đều khai nhận hành vi phạm tội, nhất trí với bản Cáo trạng và luận tội của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn. Tại lời nói sau cùng, bị cáo xin được hưởng mức án nhẹ nhất để sớm trở về hòa nhập cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Khoảng 09 giờ 20 phút ngày 12/9/2019, tại quán cắt tóc của Vi Văn H thuộc khu *, thị trấn N, huyện V, tỉnh Lạng Sơn, tổ công tác Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đang làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang Vi Văn H đang có hành vi tàng trữ 10 (mười) gói ma túy heroine, có tổng khối lượng 0,280 gam (đã trừ bì), với mục đích để sử dụng. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, phù hợp với vật chứng đã thu giữ được và Kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự; nhận thức được hành vi bị cáo thực hiện là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Vi Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội thấy rằng: Hành vi mà bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân gián tiếp gây ra tệ nạn xã hội và các tội phạm khác. Bị cáo nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng chỉ vì để phục vụ cho việc sử dụng ma túy của bản thân, bị cáo đã bất chấp pháp luật và dư luận xã hội, để thực hiện hành vi phạm tội.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Về nhân thân: Bị cáo nghiện ma túy từ năm 2009, ngày 30/9/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; đã chấp hành xong ra tù lại tiếp tục sử dụng ma túy; điều này thể hiện bị cáo thiếu tu dưỡng, rèn luyện bản thân.

[7] Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết xử phạt cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung.

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo Biên bản xác minh ngày 01/11/2019 của Cơ quan điều tra và qua xét hỏi công khai tại phiên tòa sơ thẩm thấy rằng: Bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định, không có tài sản riêng có giá trị, bản thân nghiện ma túy; vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy khối lượng ma túy còn lại sau giám định (0,223 gam heroine) được để trong 01 (một) phong bì thư niêm phong ký hiệu bằng chữ viết tay “QT VI VĂN H” và toàn bộ các vỏ bao gói là vật Nhà nước cấm lưu hành và vật không còn giá trị sử dụng. Trả lại cho bị cáo Vi Văn H 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 (một) sim Vinaphone là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội.

[10] Trách nhiệm bồi thường thiệt hại; vấn đề dân sự trong vụ án hình sự: Không có yêu cầu nên không xem xét.

[11] Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn về tội danh, điều luật áp dụng, hình phạt và xử lý vật chứng phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12] Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo, bị cáo khai là người Trung Quốc và không biết họ tên, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được; do đó không có căn cứ xem xét trong vụ án này.

[13] Bị cáo là người bị kết án, theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Căn cứ Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Căn cứ vào điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vi Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Vi Văn H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù giam, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 12/9/2019.

3. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy khối lượng ma túy còn lại sau giám định (0,223 gam heroine) được để trong 01 (một) phong bì thư niêm phong ký hiệu bằng chữ viết tay “QT VI VĂN H” và toàn bộ các vỏ bao gói.

Trả lại cho bị cáo Vi Văn H 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 (một) sim Vinaphone.

(Vật chứng đang được lưu giữ tại Chi Cục thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 07/11/2019).

4. Về án phí: Bị cáo Vi Văn H phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào Ngân sách Nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 94/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:94/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Lãng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về