Bản án 94/2019/HS-ST ngày 22/05/2019 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 94/2019/HS-ST NGÀY 22/05/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 5 năm 2019, tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 95/2019/TLST-HS ngày 18 tháng 4 năm 2019; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 109/2019/QĐXXST-HS ngày 08/5/2019 đối với bị cáo:

Phan Đăng L, sinh năm 1990, tại tỉnh B. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã P, huyện X, tỉnh B; nơi đăng ký tạm trú: Nhà số 250, đường B, phường P, quận T1, Thành phố H; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Đăng C (chết) và bà Hoàng Thị T; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không có; bị bắt tạm giữ ngày 20-8-2017 (theo Lệnh bắt khẩn cấp), trả tự do ngày 21-8-2017, bị bắt tạm giam lại ngày 21-01­2019 “có mặt”.

Bị hại: Anh Lưu Đức L', sinh năm 1986. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xã T, huyện TN, tỉnh N; nơi đăng ký tạm trú: Nhà số 18, đường T, phường P, thành phố C, tỉnh Đ “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 19/8/2017, khi Phan Đăng L điều khiển xe môtô hiệu Dream biển số 52P5 – 5320 đến trước Cổng số 1-Bến xe MT, số 395, đường K, Khu phố 6, phường A1, quận B thì nhìn thấy anh Lưu Đức L' đang đứng sát bên goài lề đường và trên tay của anh L' có cầm 01 chiếc điện thoại di động hiệu Sony Xperia XZ thì L nảy sinh ý định giật lấy bán kiếm tiền tiêu xài. Lúc này, L cho xe chạy quay đầu lại, leo lên lề đường và vọt lên từ phía sau bên trái và xéo qua sát trước mặt anh L' rồi dùng tay trái chồm qua giật lấy được chiếc điện thoại của anh L' và liền tăng ga xe bỏ chạy về hướng Quận 6. Trên đường đi, L cất chiếc điện thoại vừa giật được vào túi quần và chạy đến quán nước số 1506, đường V, Phường 3, Quận S để chiếc điện thoại này trên bàn nhưng không tắt nguồn.

Sau khi bị giật chiếc điện thoại di động, anh L' đã sử dụng chiếc điện thoại di động khác định vị được chiếc điện thoại di động của anh tại số 1506, đường V, Phường 3, Quận S nên thuê xe ôm của anh Lê Thanh Hải chở chạy đuổi theo truy tìm. Khi đến nơi, anh L' thấy chiếc điện thoại di động hiệu Sony Xperia XZ trên bàn trước mặt L đang ngồi nên dùng chiếc điện thoại di động khác đó gọi vào số máy điện thoại trên thì

1 thấy chiếc điện thoại di động trên bàn đổ chuông. Lúc đó, biết chắc là chiếc điện thoại di động này là của anh nên cùng với anh Hải bắt giữ L và vật chứng đưa đến Công an Phường 3, Quận S làm việc. Sau đó, vụ việc được bàn giao cho Cơ quan điều tra-Công an quận Bình Tân giải quyết theo thẩm quyền.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phan Đăng L khai nhận, do cần có tiền tiêu xài nên đã sử dụng xe môtô hiệu Dream, biển số 52P5–5320 làm phương tiện thực hiện hành vi giật lấy tài sản là chiếc điện thoại di động hiệu Sony Xperia XZ của anh Lưu Đức L' rồi tẩu thoát đến quán nước trên đường V, Phường 3, Quận S thì bị anh L' phát hiện bắt giữ nên nay bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Đồng thời, không có ý kiến gì về giá trị tài sản đã chiếm đoạt, trách nhiệm dân sự và giải quyết vật chứng.

Bản cáo trạng số 99/CT-VKS ngày 16 tháng 4 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Phan Đăng L ra trước Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh để xét xử về “Tội cướp giật tài sản”, theo điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo Phan Đăng L đã có hành vi nhanh chóng chiếm đoạt trái phép tài sản là 01 chiếc điện thoại di động hiệu Sony Xperia XZ của anh Lưu Đức L' một cách công khai rồi tẩu thoát và tội phạm đã hoàn thành, tài sản có giá trị là 5.000.000 đồng; bị cáo đã sử dụng xe môtô là “nguồn nguy hiểm cao độ” làm phương tiện thực hiện hành vi này nên được xác định là “Dùng thủ đoạn nguy hiểm”, do đó cần phải có mức án thật nghiêm mới có đủ sức giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho bị hại nên cần được xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu. Do đó, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt bị cáo với mức án từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm 06 tháng tù về “Tội cướp giật tài sản”. Về trách nhiệm dân sự, bị hại đã được nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu gì, còn về vật chứng đã được giải quyết xong nên không ý kiến.

Bị cáo không tranh luận và bào chữa gì về hành vi đã bị truy tố, còn lời nói sau cùng thì xin giảm nhẹ mức hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra – Công an quận Bình Tân, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 19/8/2017, bị cáo Phan Đăng L đã có hành vi nhanh chóng chiếm đoạt trái phép tài sản là 01 chiếc điện thoại di động hiệu Sony Xperia XZ của anh Lưu Đức L' tại trước Cổng số 1-Bến xe MT, số 395, đường K, Khu phố 6, phường A1, quận B một cách công khai rồi tẩu thoát. Theo Kết luận của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thì chiếc điện thoại di động này có giá trị là 5.000.000 đồng. Xong, do bị cáo đã sử dụng xe môtô hiệu hiệu Dream, biển số 52P5– 2 5320 làm phương tiện thực hiện hành vi này nên được coi là “Dùng thủ đoạn nguy hiểm”. Như vậy, bị cáo đã phạm “Tội cướp giật tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại Tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị hại, biên bản nhận dạng, chỉ điểm, thực nghiệm điều tra, vật chứng thu giữ được, định giá tài sản… nên đã đủ chứng cứ buộc tội bị cáo và lời đề nghị của Kiểm sát viên vừa nêu trên là có cơ sở chấp nhận.

[3]Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, khá táo bạo, liều lĩnh và xem thường pháp luật, đã lợi dụng sự sơ hở của người khác chiếm đoạt trái phép tài sản một cách công khai ngay trên đường phố giữa ban ngày là không những trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân mà còn có thể gây ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ và gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được việc làm của mình là sai, vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự trong vụ án này với mức án tương xứng. Tuy nhiên, tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho bị hại và có hoàn cảnh gia đình khó khăn nên cần được xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 136 Bộ luật Hình sự năm 1999 thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng”; do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo làm nghề tự do và không có điều kiện kinh tế nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Tuy tại Tòa hôm nay, bị hại anh Lưu Đức L' đã được triệu tập hợp lệ mà vẫn vắng mặt nhưng theo các tài liệu có trong hồ sơ thì, anh L' đã được nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu gì thêm nên không xét.

[5]Về vật chứng: Đối với chiếc điện thoại di động hiệu Sony Xperia XZ của anh Lưu Đức L'; còn chiếc xe môtô hiệu Dream, biển số 52P5–5320 của mẹ của bị cáo bà Hoàng Thị T, Cơ quan điều tra đã thu hồi và giao trả cho anh L' cùng bà T nên không xét.

[6] Bị cáo Phan Đăng L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phan Đăng L phạm “Tội cướp giật tài sản”.

- Về điều luật áp dụng và phạt: Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; phạt bị cáo Phan Đăng L 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21-01-2019, trừ đi thời gian đã bị tạm giữ trước từ ngày 20-8-2017 đến ngày 21-8-2017.

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo Phan Đăng L phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo Phan Đăng L có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại anh Lưu Đức L' vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

344
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 94/2019/HS-ST ngày 22/05/2019 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:94/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Tân - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về