Bản án 94/2019/HS-ST ngày 14/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH - TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 94/2019/HS-ST NGÀY 14/08/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 8 năm 2019 tại Trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 88/2019/TLST-HS ngày 11 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 108/2019/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Phạm Văn D; Giới tính: Nam; Sinh năm 1967; tại Thái Bình; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Đ, xã N, huyện H, tỉnh B; nghề nghiệp: buôn bán; Trình độ học vấn 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; con ông: Phạm Văn T (chết) và bà Vũ Thị T2 (chết); Hoàn cảnh gia đình: có vợ và 03 con (lớn nhất sinh năm 1994, nhỏ nhất sinh năm 2005); Tiền án: Không; Tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 15/11/2005 bị Tòa án nhân dân Quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 năm 06 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 23/9/2011 bị Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh xử phạt 10 tháng tù về tội“Trộm cắp tài sản”; Ngày 22/9/2016 bị Tòa án nhân dân quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 năm 06 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”; bị bắt tạm giam ngày: 22/3/2019. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Phùng Quí T3, sinh năm: 1983

Địa chỉ: 24 G, Phường M, Quận N1, Tp. Hồ Chí Minh(Vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Phùng Thị Bích H, sinh năm: 1997;

Đa chỉ: T3, phường N3, TP. M1, Đắk Lắk. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 06 giờ 00 ngày 22/3/2019, Phạm Văn D đón xe khách đến Bến xe Miền Đông, quận Bình Thạnh, TP.Hồ Chí Minh. Do bị mất tiền và giấy tờ tùy thân nên Dũng nảy sinh ý định trộm cắp tài sản để có tiền về quê. Dũng mua 02 cây đoản và 01 chìa khóa xe máy với giá 300.000 đồng để làm công cụ trộm tài sản. Dũng thuê người đàn ông (không rõ lai lịch) đi xe SH Mode màu đỏ biển số 70H1-344.19 chở qua nhiều tuyến đường. Đến khoảng 20 giờ 45 phút cùng ngày, khi đi đến đường nội bộ của Chung cư Harmona tại số 21 Trương Công Định, phường 14, quận Tân Bình, Dũng phát hiện xe máy hiệu Honda biển số 68X1-379.10 của anh Phùng Quí Trọng dựng bên hông lô C của chung cư không có ai trong coi. Dũng nói người xe ôm dừng lại đợi bên ngoài chờ Dũng vào gặp người thân. Dũng đi lại chỗ xe gắn máy dùng cây đoản bẻ khóa xe rồi nổ máy bỏ đi được khoản 20m thì bị phát hiện. Người lái xe ôm bỏ chạy để lại xe SH Mode biển số 70H1-344.19 Theo Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 86/HĐĐGTS-TTHS ngày 26/4/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự: Xe máy hiệu Honda (Việt nam) biển số 68X1-379.10 trị giá 15.000.000 đồng Vật chứng vụ án:

- 02 cây đoản - 01 chìa khóa xe - 01 điện thoại di động hiệu Nokia - 02 USB màu xanh lá.

- 01 xe gắn máy hiệu SH mode màu đỏ.

- 01 biển số xe 70H1-344.19

- 01 giấy chứng nhận đăng ký xe máy biển số 70H1-344.19 mang tên Trần Văn Hải Tại bản cáo trạng số 89/CTr-VKSTB ngày 10 tháng 7 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đ truy tố bị cáo Phạm Văn D về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nêu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù giam.

Về vật chứng thì đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đ nêu, không có tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đ được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1 Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Phạm Văn D, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đ thực hiện đ ng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

2 Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của người bị hại, người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo Phạm Văn D đ có hành vi lén lút chiếm đoạt xe máy hiệu Honda biển số 68X1-379.10 của anh Phùng Quí Trọng. Theo kết luận định giá số 86/HĐĐGTS-TTHS ngày 26/4/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự: Xe máy hiệu Honda (Việt nam) biển số 68X1-379.10 trị giá 15.000.000 đồng. Hành vi của bị cáo đ phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 Hành vi của bị cáo là nghiêm trọng và gây nguy hiểm cho x hội, đ trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu, quản lý tài sản hợp pháp của công dân được Nhà nước và pháp luật bảo hộ, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo đ thành niên, đủ khả năng nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác bị pháp luật ngăn cấm và bị trừng trị nhưng do động cơ tham lam nên bị cáo đ cố tình thực hiện tội phạm một cách liều lĩnh, bất chấp sự trừng trị của pháp luật. Bị cáo đ nhiều lần bị kết án về hành vi trộm cắp tài sản mặc dù đ được xóa án tích nhưng khi có cơ hội bị cáo vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết áp dụng hình phạt nghiêm khắc nhằm mục đích giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

3 Về tình tiết giảm nhẹ: Hội đồng xét xử xem xét tình tiết: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản đ được thu hồi trả lại cho người bị hại để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

4 Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đ nhận lại tài sản và không có yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Đi với điện thoại di động hiệu Nokia thu giữ của bị cáo là tài sản cá nhân của bị cáo nên trả lại cho bị cáo.

Đi với xe máy hiệu SH mode màu đỏ qua xác minh do chị Phùng Thị Bích Hồng đứng tên chủ sở hữu, không liên quan trong vụ án nên trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Hồng.

Đi với 02 USB chứa đoạn ghi hình camera liên quan đến vụ trộm (đ được niêm phong). Xét đây là vật chứng liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên tịch thu và lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

Đi với 02 cây đoản; 01 chìa khóa xe; 01 biển số xe 70H1-344.19 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe máy biển số 70H1-344.19 mang tên Trần Văn Hải (qua xác minh là giả) xét không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Căn cứ khoản 1, điểm c khoản 2, khoản 3 Điều 106, Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

1 Tuyên bố bị cáo Phạm Văn D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử p h ạt bị cáo : Phạm Văn D 02 (Hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/3/2019.

[2] Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu và lưu giữ trong hồ sơ vụ án 02 USB màu xanh lá hiệu Kingston, dung lượng 2GB, đ được niêm phong, chứa đoạn ghi hình camera liên quan đến vụ trộm;

- Tịch thu và tiêu hủy: 02 cây đoản bằng thép, mỗi cây dài 7cm; 01 chìa khóa xe máy có cán chìa màu đen; 01 biển số 70H1-344.19 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe máy biển số 70H1-344.19 mang tên Trần Văn Hải, địa chỉ: tổ 5, ấp Thạnh Thọ, x Thạnh Bình, huyện Tây Biên, tỉnh Tây Ninh

- Trả lại cho bị cáo điện thoại di động hiệu Nokia màu đen xám, có vỏ và n t bấm bằng nhựa, màn hình đen trắng, số Imei 1: 352882100881460; số imei 2: 352882101881469, kèm 01 simcard Viettel số seri: 8984048000039102229. Điện thoại đ niêm phong.

- Trả lại cho chị Phùng Thị Bích Hồng 01 xe máy Honda SH mode màu đỏ số khung: RLHJF5113FY116987, số máy: JF51E-0387273.

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 102/PNK ngày 17/5/2019 của Công an quận Tân Bình)

3 Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4 Trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 94/2019/HS-ST ngày 14/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:94/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về