Bản án 94/2019/HSST ngày 09/05/2019 về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 94/2019/HSST NGÀY 09/05/2019 VỀ TỘI MUA BÁN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Mở phiên tòa công khai ngày 09/5/2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 114/2019/TLST-HS ngày 27/3/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 121/2019/QĐXXST-HS ngày 22/4/2019, đối với các bị cáo:

1/ Họ và tên: NGUYỄN H.T (Bờm)

Sinh năm: 1994, tại: Khánh Hòa

Nơi cư trú: 154/1 Mai Xuân Thưởng, V. H, thành phố N, Khánh Hòa.

Quốc tịch: Việt Nam Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không

Nghề nghiệp: Buôn bán Trình độ học vấn: 12

Con ông: Nguyễn Văn Th và bà: Nguyễn Thị Ngọc Kim L Tiền án, tiền sự: Không

Bắt, tạm giam ngày 19/02/2017

Bị cáo có mặt tại phiên tòa

2/ Họ và tên: LỮ HOÀNG B.V (Bo)

Sinh năm: 1996, tại Đăk Lăk

Nơi cư trú: Tổ dân phố 18, Phước An, K. P, Đăk Lăk

Chỗ ở: Căn hộ 1214, CT7B, V. Đ. T, V. H, thành phố N.

Quốc tịch: Việt Nam Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Phật

Nghề nghiệp: Không Trình độ học vấn: 11/12

Con ông: Lữ Hoàng Minh Tr và bà: Võ Thị Thảo L Tiền án, tiền sự: Không

Bắt, tạm giam ngày 19/02/2017

Bị cáo có mặt tại phiên tòa

3/ Họ và tên: ĐÀO MINH N (Hý) Sinh năm: 1996, tại N

Nơi cư trú: 46/7 Nguyễn Khuyến, V. H, thành phố N, Khánh Hòa.

Chỗ ở: 23B Tổ 11, Tây Nam, V. H, thành phố N, Khánh Hòa.

Quốc tịch: Việt Nam Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Phật

Nghề nghiệp: Không Trình độ học vấn: 9/12

Con ông: Đào Minh H và bà: Phạm Thị Hồng H Tiền án, tiền sự: Không

Bắt, tạm giam từ ngày 06/9/2017 đến ngày 16/01/2018 thay thế biện pháp tạm giam bằng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.

Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn Nh

Địa chỉ: Lương Sơn, V. L, thành phố N, Khánh Hòa. Vắng mặt.

- Người làm chứng:

1/ Ông Nguyễn Văn Tr.

Địa chỉ: Lương Sơn, V. L, thành phố N. Vắng mặt.

2/ Ông Đào Xuân L.

Địa chỉ: 09A Đồi Trại Thủy, P. S, thành phố N. Vắng mặt.

3/ Ông Trịnh Hòa Kh.

Địa chỉ: 47 Điện Biên Phủ, V. H, thành phố N.Vắng mặt.

* Người chứng kiến:

1/ Ông Lê Hồng Ph.

Địa chỉ: Tổ 10, Võ Cạnh, V. Tr, thành phố N. Vắng mặt.

2/ Ông Phạm Huy H.

Địa chỉ: Phước Trung, Ph. Đ, thành phố N. Vắng mặt.

3/ Ông Huỳnh A.

Địa chỉ: Tổ 3, Đông Nam, V. H, thành phố N. Vắng mặt.

4/ Ông Nguyễn Văn Kh.

Tổ 1, Vĩnh Điềm Trung, V. H, thành phố N. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 03 giờ 15 phút ngày 19/02/2017, trong khi tuần tra tại khu vực cầu Xóm Bóng, V. P, thành phố N, tổ công tác của Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố N phát hiện Đào Minh N và Nguyễn Văn Tr đang đứng trên cầu có biểu hiện nghi vấn về ma túy nên đã tiến hành kiểm tra. Lúc này, N ném xuống đất 01 bịch nylon bên trong có chứa 08 viên dạng nén hình tròn màu xanh, một mặt in hình chìm chữ LV (ký hiệu A1) có trọng lượng: 2,5458g, 01 viên dạng nén hình thù không xác định màu trắng (ký hiệu B1) có trọng lượng 0,3227g, 01 dạng viên nén hình thù không xác định màu nâu (ký hiệu C1) có trọng lượng 0,3265 và 03 bịch nylon bên trong chứa chất bột nén màu trắng (ký hiệu D1) có tổng trọng lượng là: 0,8858g. Tại cơ quan công an, N khai nhận khoảng 01 giờ ngày 19/02/2017, Quậy (không rõ lai lịch) gọi điện cho N hỏi có mua ma túy không thì đem lên Karaoke Quốc Tế để sử dụng thì N đồng ý. Sau đó, N gọi điện cho Nguyễn H.T hỏi mua 05 viên thuốc lắc và 01 bịch ma túy “Khay”, T đồng ý và hẹn N tới nhà Trí ở 154/1 Mai Xuân Thưởng, V. H, thành phố N để bán ma túy. N liền nhờ bạn là Nguyễn Văn Tr chở tới nhà T (Tr không biết N nhờ chở đi mua ma túy của T). Khi đến nơi, N nói T đứng ở ngoài đường đợi còn N đi vào gặp T thì T từ trong nhà ném 01 bịch nylon bên trong có 10 viên thuốc lắc và 03 bịch ma túy “Khay” ra cho N và nói có bỏ dư ma túy cứ cầm sử dụng nếu không hết thì đem về lại cho T vì T phòng khi T đang ngủ thì N lại gọi điện hỏi mua ma túy. Vì đã mua bán ma túy với nhau nhiều lần nên cả hai thống nhất là N lấy ma túy của T đem đi sử dụng, khi nào có tiền thì N sẽ trả cho T sau. Sau đó, N cầm ma túy đi ra chỗ Tr đứng đợi và nói Tr chở về nhà để thay quần áo rồi tiếp tục nhờ Tr chở đi công chuyện, khi đến cầu Xóm Bóng thì bị phát hiện bắt giữ.

Khoảng 05 giờ cùng ngày, trong khi tuần tra tại trước cổng cấp cứu Bệnh viện đa khoa tỉnh Khánh Hòa ở đường Yersin, L. T, thành phố N, tổ công tác phát hiện Nguyễn H.T nên mời về trụ sở làm việc. Tại cơ quan công an, Trí thừa nhận toàn bộ sự việc bán ma túy cho N như đã nêu trên. Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của T tại 154/1 Mai Xuân Thưởng, V. H, thành phố N, tổ công tác đã thu giữ được 25 viên dạng nén hình tròn màu xanh, một mặt in chìm hình chữ LV (ký hiệu E1) có trọng lượng: 8,0366g, 02 bịch nylon hàn kín bên trong chứa chất bột nén màu trắng (ký hiệu F1) có trọng lượng: 0,6547g. Tại cơ quan công an, T khai nhận số viên nén và bột nén màu trắng bị thu giữ là chất ma túy tổng hợp, T mua của Lữ Hoàng B.V ở căn hộ 1214 Chung cư CT7B V. Đ. T, V. H, thành phố N.

Khoảng 08 giờ 45 phút cùng ngày, Tổ công tác phối hợp với Công an xã V. H, thành phố N đến kiểm tra căn hộ 1214 Chung cư CT7B VĐT, V. H, thành phố N thì phát hiện Lữ Hoàng B.V đang ở trong phòng nên mời V về trụ sở làm việc. Tại Cơ quan công an, V khai nhận vào tối ngày 16/02/2017 có bán cho T 20 viên thuốc lắc. Về nguồn gốc số ma túy V khai nhận mua từ một người đàn ông tên Phong (không rõ lai lịch) ở thành phố Hồ Chí Minh. Số ma túy mua được V đã bán hết cho những người nghiện.

Quá trình điều tra chứng minh được Nguyễn H.T đã nhiều lần bán ma túy cho Đào Minh N, Đào Xuân L, Trịnh Hòa Kh để kiếm lời. Lữ Hoàng B.V cũng nhiều lần bán ma túy cho Nguyễn H.T để kiếm lời. Lần gần nhất là tối ngày 16/02/2017, tại quán Guiru ở đường Trần Phú, thành phố N, V đã bán 20 viên thuốc lắc cho T với giá 270.000đ/1 viên.

Tại bản kết luận giám định số 116/GĐTP/2017 ngày 24/02/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Khánh Hòa kết luận: Viên nén trong các mẫu A1, E1 đều có chất ma túy Methamphetamine; Viên nén trong các mẫu ký hiệu B1, C1 đều không có chất ma túy; tinh thể màu trắng trong các mẫu ký hiệu D1, F1 gửi giám định đều có chất ma túy Ketamine.

Tại công văn số 381/PC54 ngày 04/8/2017 giải thích kết luận giám định số 116 ngày 24/02/2017 của Phòng kỹ thuật quân sự Công an tỉnh Khánh Hòa như sau:

Mẫu ký hiệu A1, E1 gửi giám định đều là chất ma túy, là (loại) Methamphetamine, mẫu B1, C1 gửi giám định không có chất ma túy, mẫu ký hiệu D1, F1 gửi giám định đều là ma túy, là (loại) Ketamine.

Khối lượng các mẫu vật gửi giám định: Mẫu A1 có khối lượng 2,5458g

Mẫu B1 có khối lượng 0,3227g Mẫu C1 có khối lượng 0,3265g Mẫu D1 có khối lượng 0,8858g Mẫu E1 có khối lượng 8,0366g Mâu F1 có khối lượng 0,6547g

Bản cáo trạng số 207/CT-VKS ngày 25/9/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N đã truy tố các bị cáo Nguyễn H.T, Lữ Hoàng B.V về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 và truy tố Đào Minh N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo Đào Minh N khai nhận: Khoảng 01 giờ ngày 19/02/2017, có người bạn tên Quậy (không rõ lai lịch) hỏi bị cáo có ma túy không, mang đến Karaoke Quốc tế để cùng sử dụng. N đồng ý và điện thoại cho Nguyễn H.T hỏi mua và Nguyễn H.T đã bán cho Đào Minh N 08 viên ma túy trọng lượng 2.5458g, loại Methamphetamine và 01 bịch ma túy loại Ketamine, trọng lượng 0,8858g và nhờ Nguyễn Văn Tr (không biết N đi ma túy) chở đến nhà Nguyễn H.T lấy ma túy thì bị phát hiện, bắt giữ. Khám xét chỗ ở của Nguyễn H.T đã thu giữ được 8,0366g ma túy, loại Methamphetamine, 0,6547g ma túy loại Ketamine. Số ma túy này Nguyễn H.T tàng trữ nhằm mục đích để bán và khai nhận đã bán nhiều lần cho Đào Minh N, Đào Xuân L, Trịnh Hòa Kh. Nguồn gốc số ma túy thu giữ của Nguyễn H.T do Nguyễn H.T mua của Lữ Hoàng B.V. Lữ Hoàng B.V thừa nhận đã nhiều lần bán ma túy cho Nguyễn H.T. Ma túy Lữ Hoàng B.V bán cho Nguyễn H.T do V mua của một người tên Phong (không rõ lai lịch) tại Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Căn cứ diễn biến của vụ án, tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của từng bị cáo, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố thành phố N kiểm sát xét xử tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn H.T và Lữ Hoàng B.V mỗi bị cáo từ 07 năm tù đến 08 năm tù và phạt bổ sung từ 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng; áp dụng khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999; khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm p, khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Đào Minh N từ 01 năm tù đến 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; xử lý trách nhiệm dân sự, vật chứng vụ án và tiền án phí theo quy định chung.

[4] Hội đồng xét xử nhận thấy:

[4.1] Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với Biên bản sự việc, Biên bản khám xét, Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Khánh Hòa; phù hợp lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, người chứng kiến và các chứng cứ, tài liệu khác thu thập được có tại hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa.

[4.2] Bản kết luận giám định số 116/GĐTP/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Khánh Hòa đã xác định: Khối lượng ma túy loại Methamphetamine mà Đào Minh N đã tàng trữ là 2,5458g và 0,8858g ma túy loại Ketamine.

Nội dung bản kết luận đúng quy định tại Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT.BCA-VKSNDTC-TANDTA-BTP ngày 14/11/2015 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT.BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007, đúng nội dung Công văn số 2101/C41-C44 ngày 03/7/2017 của Tổng cục Cảnh sát, Bộ Công an và Công văn 2955/CSĐT (C44) ngày 29/8/2016, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Bộ Công an, Công văn số 4062/VKSTC-V4 ngày 11/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân Tối cao về trả lời kết luận giám định lên quan đến ma túy.

[4.2.1] Theo quy định tại Tiểu mục 3.6 Mục 3 Phần II Thông tư liên tịch số 17/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật Hình sự năm 1999, hành vi của bị cáo Đào Minh N đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[4.2.2] Hành vi bán nhiều lần ma túy cho Nguyễn H.T của Lữ Hoàng B.V và Nguyễn H.T bán nhiều lần cho Đào Minh N, Đào Xuân L, Trịnh Hòa Kh đã đủ yếu tố cầu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

[4.3] Những chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập đều hợp pháp. Hành vi, Quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa tuân thủ quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[4.4] Bản cáo trạng số 207/CT-VKS ngày 25/9/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N đã truy tố các bị cáo Nguyễn H.T, Lữ Hoàng B.V về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 và truy tố Đào Minh N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[5] So sánh khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 với khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 có mức hình phạt từ 01 năm đến 05 năm, nhẹ hơn quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999. Áp dụng khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015, Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội. Hội đồng xét xử áp dụng khung hình phạt từ 01 năm tù đến 05 năm tù để xét xử bị cáo Đào Minh N.

[6] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự, trị an địa phương, xâm phạm sự độc quyền quản lý của Nhà nước. Các bị cáo đều là thanh niên mới lớn, nhận thức đầy đủ tính nguy hiểm và tác hại của ma túy, nhưng vì hám lợi, không làm chủ được bản thân, đua theo bạn bè đi tìm sự kích thích, khoái cảm thông qua hành vi vi phạm pháp luật, đã tiếp tay gây ra tình trạng nghiện ngập trong cộng đồng, cho bản thân, ảnh hưởng đến công việc và kinh tế gia đình.

Đây là vụ án có tính đồng phạm giản đơn, trong đó Lữ Hoàng B.V giữ vai trò là người cung cấp ma túy, Nguyễn H.T bán nhiều lần cho các con nghiện khác, Đào Minh N là những người cần ma túy để sử dụng. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng một hình phạt có tính phân hóa, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của từng bị cáo nhằm giáo dục, răn đe các bị cáo và phòng ngừa chung.

[7] Tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo; chưa có tiền án, tiền sự; nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; khoản 3 Điều 7; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 để giảm hình phạt cho các bị cáo.

[8] Áp dụng khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 phạt bổ sung bị cáo Nguyễn H.T và Lữ Hoàng B.V mỗi bị cáo 10.000.000đ nộp ngân sách Nhà nước.

[9] Đối với người tên Phong bán ma túy cho Lữ Hoàng B.V, Cơ quan Cảnh sát điều tra chưa đủ căn cứ để xác định. Đề nghị tiếp tục điều tra, nếu phát hiện và có căn cứ sẽ xử lý ở vụ án khác.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt, nếu có yêu cầu sẽ xử lý sau theo quy định của pháp luật.

[11] Về vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy số ma túy đã thu giữ, còn lại sau giám định.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone sử dụng số thuê bao 01655687575 của Đào Minh N; 01 (một) điện thoại di động hiệu IPHONE sử dụng số thuê bao 01202323414 của Nguyễn H.T; 01 (một) điện thoại di động hiệu IPHONE sử dụng số thuê bao 0909739126 của Lữ Hoàng B.V là phương tiện dùng để liên lạc mua bán ma túy, cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

- 01 (một) xe mô tô hiệu Honda SH biển kiểm soát 79N1 594.94 của bị cáo Nguyễn H.T là tài sản của bị cáo, không liên quan đến vụ án, trả lại cho bị cáo.

- Số tiền 11.100.000đ thu giữ của bị cáo Lữ Hoàng B.V, trong đó có 8.000.000đ tiền bán ma túy cho Nguyễn H.T, nên cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước. Trả lại cho bị cáo Lữ Hoàng B.V số tiền còn lại là 3.100.000đ, nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Số tiền 12.150.000đ thu giữ của bị cáo Nguyễn H.T, trong đó có 3.000.000đ tiền bán ma túy cho Đào Minh N, nên cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước. Trả lại cho bị cáo Nguyễn H.T số tiền còn lại là 9.150.000đ, nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[12] Về án phí: Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1/ Căn cứ điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 và áp dụng điểm p, khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; khoản 3 Điều 7; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 136, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự đối với bị cáo Nguyễn H.T,

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn H.T (Bờm) 07 (bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giam 19/02/2017.

Phạt bổ sung bị cáo 10.000.000đ (mười triệu đồng) nộp ngân sách Nhà nước.

2/ Căn cứ điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 và áp dụng điểm p, khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; khoản 3 Điều 7; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 136, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự đối với bị cáo Lữ Hoàng B.V,

Xử phạt: Bị cáo Lữ Hoàng B.V (Bo) 07 (bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giam 19/02/2017.

Phạt bổ sung bị cáo 10.000.000đ (mười triệu đồng) nộp ngân sách Nhà nước.

3/ Căn cứ khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999; khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 và áp dụng điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 136, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự đối với bị cáo Đào Minh N,

Xử phạt: Bị cáo Đào Minh N (Hý) 01 (một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án, nhưng được trừ thời gian đã tạm giam từ ngày 06/9/2017 đến 16/01/2018.

* Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt, nếu có yêu cầu sẽ xử lý sau theo quy định của pháp luật.

* Về vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự,

- Tịch thu, tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, gồm:

+ 01 (một) phong bì giấy được niêm phong kín, mặt trước ghi:” Niêm phong vụ số 2431/A1 ngày 17/7/2018, mặt sau có chữ ký của người chứng kiến Phan Thanh Tùng.

+ 01 (một) phong bì giấy được niêm phong kín, mặt trước ghi:” Niêm phong vụ số 2431/D1 ngày 17/7/2018, mặt sau có chữ ký của người chứng kiến Phan Thanh Tùng.

+ 01 (một) phong bì giấy được niêm phong kín, mặt trước ghi:” Niêm phong vụ số 2431/E1 ngày 17/7/2018, mặt sau có chữ ký của người chứng kiến Phan Thanh Tùng.

+ 01 (một) phong bì giấy được niêm phong kín, mặt trước ghi:” Niêm phong vụ số 2431/F1 ngày 17/7/2018, mặt sau có chữ ký của người chứng kiến Phan Thanh Tùng.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thành phố N và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N ngày 19/7/2018).

+ 01 (một) phong bì giấy được niêm phong kín, mặt trước ghi:” Mẫu vật còn lại sau giám định ký hiệu B1: 0,1897g, mặt sau có chữ ký của Nguyễn Hoàng Quang Anh, Nguyễn Khắc Huy và hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Khánh Hòa.

+ 01 (một) phong bì giấy được niêm phong kín, mặt trước ghi:” Mẫu vật còn lại sau giám định ký hiệu C1: 0,1968g, mặt sau có chữ ký của Nguyễn Hoàng Quang Anh, Nguyễn Khắc Huy và hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Khánh Hòa.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thành phố N và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N ngày 19/10/2017).

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước:

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone vỏ màu trắng sử dụng số thuê bao 01655687575 của Đào Minh N; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone vỏ màu đen, sử dụng số thuê bao 01202323414 của Nguyễn H.T; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone vỏ màu hồng, sử dụng số thuê bao 0909739126 của Lữ Hoàng B.V.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thành phố N và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N ngày 19/10/2017).

+ Số tiền 8.000.000đ của Lữ Hoàng B.V, 3.000.000đ của Nguyễn H.T (Theo giấy nộp tiền vào ngân sách Nhà nước số CT 0009922 ngày 20/10/2017 của Kho bạc Nhà nước thành phố N).

- Tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án số tiền 3.100.000đ của Lữ Hoàng B.V và 9.150.000đ của Nguyễn H.T (Theo giấy nộp tiền vào ngân sách Nhà nước số CT 0009922 ngày 20/10/2017 của Kho bạc Nhà nước thành phố N)

- Trả lại cho Nguyễn H.T 01 (một) xe mô tô hiệu Honda SH biển kiểm soát 79N1 594.94, số máy JF42E0035472, số khung RLHJF4210DY035418. (Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thành phố N và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N ngày 19/10/2017).

Án phí: Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho các bị cáo biết, được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

252
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 94/2019/HSST ngày 09/05/2019 về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:94/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về