Bản án 94/2019/HNGĐ-ST ngày 14/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 94/2019/HNGĐ-ST NGÀY 14/08/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 14 tháng 8 năm 2019, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 226/2019/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 6 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 235/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 8 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Xuân K, sinh năm: 1983; Địa chỉ: ấp 1, xã An Khánh, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.

- Bị đơn: Anh Lê Thanh T, sinh năm: 1977; Địa chỉ: ấp 1, xã An Khánh, huyện C, tỉnh B.

(Hiện đang chấp hành án tại Trại giam Châu Bình, Địa chỉ: ấp 4, xã Châu Bình, huyện G, tỉnh B).

Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 10/6/2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Xuân K trình bày:

Chị và bị đơn là anh Lê Thanh T chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã An Khánh, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre vào ngày 26/4/2002. Thời gian đầu, vợ chồng cùng chung sống với nhau rất hạnh phúc và có một con chung, sau đó vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn trong cuộc sống và có nhiều bất đồng, vợ chồng thường hay cãi vã với nhau, không thể chung sống với nhau được. Đến năm 2018, anh T bị bắt và phải chấp hành án phạt tù tại Trại giam Châu Bình, vợ chồng cũng đã sống ly thân với nhau từ đó cho đến nay. Do tình cảm vợ chồng không còn nữa nên chị có yêu cầu ly hôn với anh T.

Về con chung: Trong quá trình chung sống chị và anh T có 01 con chung tên Lê Nguyễn Cao Kỳ Ân, sinh ngày 30 tháng 7 năm 2002 hiện do chị đang trực tiếp nuôi dưỡng. Chị có yêu cầu sau khi vợ chồng ly hôn, chị là người tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng con chung, chị không yêu cầu anh T phải có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản ghi nhận ý kiến của anh Lê Thanh T, anh Lê Thanh T trình bày:

Anh và chị K sống chung vào năm 2002, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã An Khánh, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre vào ngày 26/4/2002. Trong quá trình chung sống, anh chị sống rất hạnh phúc nhưng vào năm 2018, anh phải chấp hành án phạt tù nên vợ chồng không còn chung sống với nhau được nữa nhưng anh vẫn còn thương vợ, nên theo yêu cầu xin ly hôn của vợ anh, không không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Trong quá trình chung sống chị và anh T có 01 con chung tên Lê Nguyễn Cao Kỳ Ân như vợ anh trình bày, hiện do vợ anh đang trực tiếp nuôi dưỡng. Trường hợp nếu Tòa án giải quyết cho vợ chồng anh ly hôn, anh đồng ý giao con chung cho vợ anh trực tiếp nuôi dưỡng, anh không phải cấp dưỡng nuôi con vì anh không thể thực hiện được.

Về tài sản chung và nợ chung, anh đồng ý theo yêu cầu của vợ anh, anh không có yêu cầu.

Anh T có yêu cầu xin xét xử vắng mặt vì anh đang phải chấp hành án nên không thể tham gia giải quyết vụ án xin ly hôn được.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng: Anh Lê Thanh T là bị đơn trong vụ án vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. Theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh T.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị K và anh T chung sống có đăng ký kết có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã An Khánh, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre vào ngày 26/4/2002 nên quan hệ hôn nhân của anh chị được coi là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Trong quá trình chung sống, thời gian đầu vợ chồng sống rất hạnh phúc, sau đó thì xảy ra mâu thuẫn, theo chị K thì mặc dù chung sống nhưng vợ chồng thường xuyên bất hòa, cãi vã với nhau và không có hạnh phúc. Đến năm 2018, anh T và chị K đã sống ly thân với nhau vì anh T phải chấp hành án phạt tù.

Hội đồng xét xử xét thấy anh T và chị K đã sống ly thân với nhau, từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay, anh chị không còn quan tâm chăm sóc nhau như vợ như chồng vì anh T phải chấp hành án phạt tù từ năm 2018 cho đến nay. Do chị K không còn tình cảm vợ chồng với anh T nữa nên chị có yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.

Xét thấy tình trạng hôn nhân đã trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Mặt khác, chị K không còn tình cảm với anh T và cương quyết xin ly hôn với anh T. Tòa án đã động viên chị K hàn gắn với anh T vì anh T không đồng ý ly hôn nhưng chị K không đồng ý quay lại hàn gắn, chị K vẫn cương quyết xin ly hôn với anh T. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị K.

Xét yêu cầu xin đoàn tụ của anh T là không có căn cứ. Thật sự hiện nay, chị K và anh T không còn sống chung và không còn chăm sóc lo lắng với nhau như vợ như chồng kể từ năm 2018 cho đến nay, xét thấy vợ chồng không thể hàn gắn được, chị K cương quyết xin ly hôn, không đồng ý đoàn tụ. Anh T không có căn cứ chứng minh về việc đoàn tụ lại được với chị K nên không thể chấp nhận yêu cầu xin đoàn tụ của anh T được. Do đó, không chấp nhận yêu cầu đoàn tụ của anh T.

- Về con chung: Trong quá trình chung sống chị K và anh T có 01 con chung tên Lê Nguyễn Cao Kỳ Ân, sinh ngày 30 tháng 7 năm 2002 hiện do chị K đang trực tiếp nuôi dưỡng.

Hội đồng xét xử xét thấy từ khi chị K và anh T sống ly thân cho đến nay chị K vẫn đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ, cháu vẫn phát triển bình thường. Do đó, không nên làm xáo trộn về tâm lý của trẻ nên Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết nên giao con chung cho chị K tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp, để cháu được ổn định tâm lý và việc học hành; anh T cũng đồng ý khi ly hôn giao con chung cho chị K tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng. Mặt khác, cháu Kỳ Ân trên 07 tuổi, Tòa án đã tiến hành lấy ý kiến của cháu, cháu Kỳ Ân có nguyện vọng được tiếp tục sống chung với mẹ sau khi cha mẹ ly hôn; bên cạnh đó, xét thấy hiện tại anh T cũng không thể trực tiếp nuôi con chung chưa thành niên được vì anh phải chấp hành án phạt tù. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị K, giao con chung chưa thành niên cho chị K trực tiếp nuôi dưỡng.

Đối với việc cấp dưỡng nuôi con, theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình thì người không trực tiếp nuôi con phải cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, chị K không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con, xét thấy đây là sự tự nguyện của chị K, không trái với quy định pháp luật nên ghi nhận.

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị K và anh T khai không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét, nếu sau này các bên có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.

- Về án phí: Chị K phải chịu án phí Hôn nhân gia đình là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 55, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; Căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Chị Nguyễn Thị Xuân K được ly hôn với anh Lê Thanh T.

2. Về con chung: Chị Nguyễn Thị Xuân K và anh Lê Thanh T có 01 con chung tên Lê Nguyễn Cao Kỳ Ân, sinh ngày 30 tháng 7 năm 2002. Giao cháu Lê Nguyên Cao Kỳ Ân, sinh ngày 30 tháng 7 năm 2002 cho chị K trực tiếp nuôi dưỡng, anh Lê Thanh T không phải cấp dưỡng nuôi con (do chị K không có yêu cầu).

Anh Lê Thanh T được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở anh T thực hiện quyền này.

Vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi việc cấp dưỡng nuôi con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84, Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét nếu sau này các bên có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.

4. Về án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm:

Chị Nguyễn Thị Xuân K phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị K đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0004235 ngày 27 tháng 6 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm; chị K đã nộp đủ án phí.

Trong thời hạn 15 ngày: Đối với nguyên đơn có mặt tại tòa thì kể từ ngày tuyên án; Đối với bị đơn vắng mặt tại tòa thì kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã nơi cư trú của bị đơn; có quyền kháng cáo đối với bản án này để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 94/2019/HNGĐ-ST ngày 14/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:94/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về