Bản án 94/2018/HS-ST ngày 15/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 94/2018/HS-ST NGÀY 15/06/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 6 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 95/2018/ TLST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 96/2018/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 6 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Trần Ngọc Đ, sinh năm 1969. STQ: phường 6, quận T, thành phố H

HKTT: số 22, ấp L, xã L, huyện H, tỉnh Tây Ninh

Chỗ ở hiện nay: thôn C, xã G, huyện G, tỉnh Bắc Ninh

Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ học vấn: 07/10

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam

Con ông Trần Văn D và bà Nguyễn Thị M Vợ: Nguyễn Thị T sinh năm 1985

Con: có 2 con, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2008

Tiền án, tiền sự: Không

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/01/2018 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh. Có mặt tại phiên tòa.

2. Lê Thế B, sinh năm 1978.

Nơi ĐKHKTT: thôn T, xã G, huyện G, tỉnh Bắc Ninh

Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ học vấn: 07/12

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam

Con ông Lê Thế Đ1 và bà Nguyễn Thị Đ2

Vợ: Nguyễn Thị Th, sinh năm 1985 (đã ly hôn năm 2013).

Con: có 2 con, con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2007

Tiền án, tiền sự: Không

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 23/01/2018 đến nay. Hiện đang tạm giam tại

Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh. Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1980 ( Có mặt) Địa chỉ: thôn T, xã G, huyện G, tỉnh Bắc Ninh

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 45 phút, ngày 22/01/2018 tại thôn N, xã M, huyện T, tỉnh Bắc Ninh, Công an huyện Tiên Du đã tiến hành kiểm tra, bắt quả tang Trần Ngọc Đ và Lê Thế B đang có hành vi tàng trữ trái phép 1 gói giấy bạc màu vàng bên trong có chứa chất bột màu trắng. Đ và B đều khai nhận đó là gói ma túy vừa mua được ở khu vực thị xã T chưa kịp sử dụng thì bị bắt. Cơ quan Công an đã niêm phong gói chất bột, đưa hai đối tượng về trụ sở công an xã M lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ toàn bộ tang vật của vụ án. Tại bản kết luận giám định số 220/KLGĐMT-PC 54 ngày 22/01/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: chất bột màu trắng bên trong 1 gói bọc ngoài bằng giấy bạc màu vàng có khối lượng 0,3073 gam là ma túy, loại ma túy: Heroine

Với nội dung trên, bản cáo trạng số 53/CT-VKS ngày 03/5/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du đã quyết định truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Tiên Du để xét xử đối với các bị cáo Trần Ngọc Đ và Lê Thế B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Đ khai nhận: khoảng 9 giờ sáng ngày 22/01/2018 bị cáo có gọi điện thoại rủ B đi mua ma túy để cả hai cùng sử dụng. B đồng ý và đã lấy xe máy đến chở bị cáo đến khu vực thị xã T để mua ma túy. Đến nơi, B đứng đợi còn bị cáo đi đến một ngôi nhà, đưa tiền qua khe cửa thì có người trong nhà đưa ra 1 gói ma túy nhỏ bọc ngoài bằng giấy bạc màu vàng. Bị cáo cầm gói ma túy vừa mua được trong lòng bàn tay phải rồi ra chỗ B đứng đợi và cả hai đi về. Trên đường về do xe hết xăng lên bị cáo có đưa cho B 20.000đ để đổ xăng và có nói cho B là “vừa mua một cái một trăm”. Khi đi đến ngôi nhà bỏ hoang ở bãi đê thuộc địa phận thôn N, xã M, B rủ bị cáo đi vào ngôi nhà này để sử dụng ma túy. Bị cáo đặt gói ma túy xuống đất chuẩn bị sử dụng cùng B thì bị Công an phát hiện và bắt giữ. Khi bị bắt, bị cáo bị thu giữ gói ma túy vừa mua được, 01 điện thoại di động MU phone W107 vỏ màu bạc, đây là chiếc điện thoại bị cáo đã dùng để gọi rủ B cùng đi mua ma túy và 1 bật lửa ga màu đỏ đã qua sử dụng. Ngoài ra bị cáo không bị thu giữ gì khác.

Bị cáo B thừa nhận lời khai của bị cáo Đ là đúng, ngay từ đầu bị cáo đã đồng ý cùng Đ đi mua ma túy về để cùng sử dụng, bị cáo dùng chiếc xe mô tô nhãn hiệu Dae Han, BKS 99H3-0121 của anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1980 ở thôn T, xã G, huyện G, tỉnh Bắc Ninh- là chủ cửa hàng nơi bị cáo làm thợ cơ khí để chở Đ đi đến khu vực T mua ma túy. Sau khi bị cáo biết Đ đã mua được ma túy thì bị cáo đã chở Đ về, khi đến một ngôi nhà hoang thuộc khu vực thôn N, xã M, bị cáo đã bảo Đ vào đây để cùng sử dụng. Sau đó thì bị Công an bắt giữ. Ban đầu do lo sợ nên bị cáo không thừa nhận hành vi cùng đi mua ma túy với Đ, nhưng sau này bị cáo thấy việc cùng Đ đi mua ma túy về sử dụng là vi phạm pháp luật nên đã thành khẩn khai nhận toàn bộ sự việc. Bị cáo đã tự nguyện giao nộp chiếc xe mô tô Dae Han và bị thu giữ chiếc điện thoại di động Nokia 105 vỏ màu đen, đã qua sử dụng. Bị cáo không có ý kiến gì về chiếc điện thoại bị thu giữ.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Văn H trình bày tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay: Anh là chủ sở hữu của chiếc xe mô tô Dae Han, BKS 99H3- 0121. Do B là thợ cơ khí của cửa hàng anh, nên để thuận tiện trong công việc, anh đã giao chiếc xe này cho B sử dụng. Ngày 22/01/2018, B sử dụng xe để chở Đ đi mua ma túy về sử dụng, anh không biết. Ngày 02/4/2018 cơ quan điều tra đã trả lại cho anh chiếc xe trên và anh không có ý kiến gì đối với bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh thực hành quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố  các bị cáo theo Cáo trạng số 53/CT-VKSTD ngày 03/5/2018. Trong phần luận tội đã phân tích nguyên nhân, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: tuyên bố các bị cáo Trần Ngọc Đ và Lê Thế B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất  ma túy”

Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 điều 51, điều 38 BLHS. Xử phạt bị cáo Đ từ 16 đến 20 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 22/01/2018.

Xử phạt bị cáo B từ 14 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 23/01/2018.

Về hình phạt bổ sung: đề nghị không áp dụng đối với các bị cáo

Về vật chứng: áp dụng điều 47 BLHS, điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy số mẫu vật hoàn lại sau giám định và 1 chiếc bật lửa ga màu đỏ đã qua sử dụng.

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 1 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu MU phone W107 vỏ màu bạc đã qua sử dụng của Đ và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 vỏ màu đen, đã qua sử dụng của B.

Các bị cáo không tranh luận với Đại diện Viện kiểm sát về nội dung bản luận tội mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời trình bày của người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: khoảng 10 giờ 45 phút, ngày 22/01/2018, tại thôn N, xã M, huyện T, tỉnh Bắc Ninh, Công an huyện Tiên Du đã bắt quả tang Trần Ngọc Đ và Lê Thế B đang có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong có chứa chất bột màu  trắng có khối lượng 0,3073 gam, là ma  túy, loại  ma túy: Heroine. Đ và B đều khai nhận vừa mua gói ma túy đó tại khu vực thị xã T, tỉnh Bắc Ninh, mục đích để sử dụng. Như vậy, hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du truy tố đối với các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm hại tới chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy mà còn làm gia tăng tệ nạn nghiện hút trong xã hội, gây tác hại trực tiếp đến sức khỏe người sử dụng, tăng nguy cơ lây truyền vi rút HIV và là nguyên nhân phát sinh nhiều tội phạm khác. Do vậy, cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm giáo dục riêng đối với các bị cáo và phòng ngừa chung.

Xét tính chất của vụ án và vai trò của các bị cáo thì thấy, đây là vụ án có đồng phạm, nH là đồng phạm giản đơn, các bị cáo không có sự phân công nhiệm vụ từ trước mà ý thức cùng nhau đi mua ma túy về để phục vụ nhu cầu của bản thân. Trong đó bị cáo Đ giữ vai trò chính là ngưởi rủ rê đồng thời là người dùng tiền của mình để trực tiếp đi mua ma túy, còn bị cáo B là người giúp sức chở bị cáo Đ đi mua ma túy cùng sử dụng. Do đó, khi quyết định hình phạt cần xem xét áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo Đ cao hơn bị cáo B.

Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HĐXX thấy rằng: các bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, cần áp dụng quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ 1 phần trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo phạm tội chỉ để phục vụ nhu cầu của bản thân, không có mục đích thu lợi bất chính, ngoài ra, các bị cáo đều không có việc làm ổn định, gia đình khó khăn, không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì đối với bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về xử lý vật chứng: Mẫu vật còn lại sau giám định và 01 chiếc bật lửa ga màu đỏ không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 2 chiếc điện thoại di động của Đ và B sử dụng là phương tiện liên lạc rủ nhau cùng thực hiện tội phạm nên cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

Đối với chiếc xe mô tô Dae Han, BKS 99H3- 0121 quá trình điều tra xác định chiếc xe thuộc sở hữu của anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1980 ở thôn T, xã G, huyện G, tỉnh Bắc Ninh, khi bị cáo B sử dụng chiếc xe để thực hiện hành vi phạm tội, anh H không biết nên cơ quan điều tra đã quyết định trả lại chiếc xe cho anh H là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với người bán ma túy cho Đ sáng ngày 22/01/2018 ở khu vực thị xã Từ Sơn. Căn cứ lời khai của bị cáo không đủ căn cứ để xác minh làm rõ, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Trần Ngọc Đ và Lê Thế B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

2. Hình phạt: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự. Điều 106; Điều 135; Điều 136; Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Xử phạt:

Bị cáo Trần Ngọc Đ 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 22/01/2018.

Bị cáo Lê Thế B 16 (Mười sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 23/01/2018.

Tạm giam mỗi bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì thư chứa mẫu vật còn lại sau giám định và 01 bật lửa ga màu đỏ đã qua sử dụng.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động vỏ màu bạc, nhãn hiệu MU Phone W107 đã qua sử dụng của Đ và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 vỏ màu đen của B (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/5/2018)

4. Về án phí: Các bị cáo Trần Ngọc Đ và Lê Thế B, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Các bị cáo, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 94/2018/HS-ST ngày 15/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:94/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về