Bản án 93/2021/HS-ST ngày 27/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ LƯƠNG, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 93/2021/HS-ST NGÀY 27/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 75/2021/HSST ngày 10 tháng 8 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 82/2021/QĐXXST- HS ngày 10 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: TRẦN VĂN S. Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 05 tháng 7 năm 1987 tại huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên; giới tính: Nam.

Nơi cư trú: Đăng ký HKTT tại xóm K, xã Y, huyện P, tỉnh T. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Sán Chí; tôn giáo: Không; con ông Trần Văn B (sinh năm 1961) và bà Hoàng Thị H (sinh năm 1964). Bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất.

Vợ: Hoàng Thị T1 (sinh năm 1994); con: Chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Năm 2008 cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm Chữa bệnh - giáo dục - Lao động huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên thời hạn 18 tháng.

Tại bạn án số 22/2016/HSST ngày 06/4/2016 của Tòa án nhân dân huyện Phú Lương xử phạt Trần Văn S 30 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Ra trại 2018; chấp hành xong án phí ngày 24/5/2016.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/6/2021, hiện tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Phú Lương. Có mặt.

Người chứng kiến: Anh Hoàng Văn Đ, sinh năm 1978. Địa chỉ: xóm N, xã Đ, huyện P, tỉnh T. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 08 giờ ngày 10/6/2021, tổ công tác công an xã Yên đổ, huyện Phú Lương, tuần tra kiểm soát tại xóm Phố Trào, xã Yên Đổ, huyện Phú Lương, phát hiện bắt quả tang Trần Văn S đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ tại túi quần bên trái, phía sau quần S đang mặc một gói chất bột màu trắng, được bọc bên ngoài bằng lớp giấy màu vàng (S khai là heroine, tàng trữ để sử dụng). Thu giữ của S một xi lanh nhựa loại 03ml; 02 ống nước tiêm nhãn hiệu LIDOCAIN. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Trần Văn S về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và niêm phong số chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu S1. Khám xét khẩn cấp cấp chỗ ở của S không thu giữ gì.

Cùng ngày, tại Phòng kĩ thuật hình sự công an tỉnh Thái Nguyên tiến hành mở niêm phong cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng thu giữ của S được niêm phong trong bì ký hiệu S1, có khối lượng 0,193 gam, lấy cả 0,193 gam niêm phong trong phong bì ký hiệu A1 gửi giám định.

Tại bản Kết luận định giám định số 996/KL-KTHS ngày 18/6/2021 của Phòng kĩ thuật hình sự công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: số chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu A1là chất ma túy, loại heroine, có khối lượng 0,193 gam.

Tại cơ quan điều tra, Trần Văn S khai nhận: khoảng 07 giờ 30 phút ngày 10/6/2021, S đi bộ từ nhà ra đường Quốc lộ 3, rồi bắt xe buýt xuống khu vực xóm Phố Trào, xã Yên Đổ, huyện Phú Lương tìm mua ma túy sử dụng. Đến nơi S vòng quán bán thuốc Tân dược mua một xi lanh nhựa loại 03ml và 02 ống nước cất tiêm, nhãn hiệu LIDOCAIN mục đích để sử dụng ma túy. Sau đó, S đi đến cổng trường cấp 2 xã Yên Đổ, huyện Phú Lương, tại đây, S gặp và mua của một người đàn ông khoảng 30 tuổi không quen biết một gói mà túy heroin với giá 100.000 đồng. Mua được ma túy, S cất giấu ở túi quần bên trái đi bộ ra điểm bắt xe buýt thì bị Công an xã Yên Đổ, huyện Phú Lương phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng như nêu trên.

Vật chứng của vụ án gồm: 01 bì niêm phong ký hiệu A1, bên trong có 0,183 gam ma túy, loại heroine còn lại sau giám định; một bì niêm phong ký hiệu A2, bên trong có vỏ bì niêm phong ký hiệu S1 và giấy gói01 bì niêm phong ký hiệu S2, trong có một xi lanh nhựa loại 03ml và 02 ống nước nhãn hiệu LIDOCAIN, hiện đang được quản lý tại kho vật chứng theo quy định.

Cáo trạng số 77/CT-VKSPL ngày 10 tháng 8 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo Trần Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn S thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu, xác định tàng trữ 0,193 gam ma túy loại Heroine trong người với mục đích để sử dụng cho bản thân, ngoài ra không còn mục đích nào khác.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”:

- Căn cứ điều luật và hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s, khoản 1, Điều 51 BLHS; xử phạt bị cáo Trần Van S từ 30 tháng đến 36 tháng tù.

Hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

- Về vật chứng, đề nghị xử lý theo pháp luật.

- Về án phí và quyền kháng cáo, bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không tranh luận, xác định việc khởi tố, truy tố, xét xử là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Nói lời sau cùng, bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình tiến hành tố tụng, các cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Việc ban hành các quyết định tố tụng đúng quy định của pháp luật. Bị cáo không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về sự vắng mặt của người chứng kiến ông Hoàng Văn Đ: Tòa án đã tống đạt hợp lệ giấy triệu tập tham gia tố tụng tại phiên tòa người chứng kiến vắng mặt. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến về sự vắng mặt của người chứng kiến, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên đề nghị xét xử vắng mặt người chứng kiến. Quá trình điều tra, người chứng kiến không có khiếu nại gì đối với quyết định, hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng liên quan đến việc mình tham gia nên việc vắng mặt người chứng kiến tại phiên tòa không gây trở ngại cho việc xét xử. Việc Tòa án xét xử vắng mặt không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt người chứng kiến ông Hoàng Văn Đ theo quy định tại Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

[3] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã xác định:

Hồi 08 giờ ngày 10/6/2021, tại xóm Phố Trào, xã Yên Đổ, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên, Trần Văn S đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,193 gam ma túy, loại heroine mục đích sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện bắt quả tang.

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra; phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; Kết luận giám định số 996/KL-KTHS ngày 18/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên.

Hành vi tàng trữ 0,193 gam Heroine, mục đích sử dụng cho bản thân của bị cáo S đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Điều luật quy định:

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm :

c, Heroine …có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[4] Hành vi của bị cáo Trần Văn S là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu về nhiều mặt cho đời sống kinh tế cũng như đạo đức xã hội, là nguồn gốc nảy sinh nhiều loại tội phạm khác. Bị cáo có đủ khả năng nhận thức được tác hại của ma túy và hậu quả của việc tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy. Bị cáo đã 01 lần bị xét xử về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục phạm tội. Do đó, cần áp dụng hình phạt tù tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 249 BLHS quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng…..” . Xét thấy bị cáo không có công việc và thu nhập ổn định, bị cáo đang bị tạm giam nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tiền án, tiền sự. Năm 2008 bị cáo bị đưa vào Trung tâm chữa bệnh – Giáo dục – Lao động xã hội huyện Phú Lương cai nghiện bắt buộc. Năm 2016 bị Tòa án nhân dân huyện Phú Lương xử phạt 30 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (đã được xóa án tích). Bị cáo là người có nhân thân xấu.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS; Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu A1, bên trong co s0,183 gam ma túy, loại heroine còn lại sau giám định; 01 bì niêm phong ký hiệu A2, bên trong có vỏ bì niêm phong ký hiệu S1 và giấy gói; 01 bì niêm phong ký hiệu S2, trong có 01 xilanh nhựa loại 03ml và 02 ống nước cất nhãn hiệu LIDOCAIN.

[7] Về nguồn gốc số ma túy, S khai mua của một người đàn đông không rõ tên tuổi, địa chỉ tại khu vực trường cấp 2 xã Yên Đổ, huyện Phú Lương nên Cơ quan điều tra Công an huyện Phú Lương không có cơ sở làm rõ để xử lý.

[8] Về án phí: Bị cáo Trần Văn S phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Lương là có căn cứ chấp nhận.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự; các điều 106, 292, 299, 329, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí, lệ phí 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Trần Văn S 34 (ba mươi tư) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/6/2021. Quyết định tạm giam bị cáo thời hạn 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu A1, bên trong có 0,183 gam ma túy, loại heroine còn lại sau giám định; 01 bì niêm phong ký hiệu A2, bên trong có vỏ bì niêm phong ký hiệu S1 và giấy gói; 01 bì niêm phong ký hiệu S2, trong có 01 xilanh nhựa loại 03ml và 02 ống nước cất nhãn hiệu LIDOCAIN.

Tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng số 86 ngày 10 tháng 8 năm 2021 giữa Công an huyện Phú Lương và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Lương.

3. Về án phí: Bị cáo Trần Văn S phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 93/2021/HS-ST ngày 27/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:93/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Lương - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về