Bản án 93/2020/HS-ST ngày 26/06/2020 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 93/2020/HS-ST NGÀY 26/06/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 26 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Ninh Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 83/2020/TLST- HS ngày 21 tháng 5 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 84/2020/QĐXXST- HS ngày 08 tháng 6 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Ninh Đức T (tên gọi khác: không), sinh năm 1969 tại Ninh Bình; nơi cư trú: Số nhà M, đường TQK, phố PĐ, phường NS, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ninh Đức V và bà Nguyễn Thị M; vợ: Nguyễn Thị L và 03 con; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

- Bản án số 41 ngày 10/12/2002 Tòa án nhân dân huyện HL xử phạt 12 tháng tù về tội Đánh bạc.

- Bản án số 72 ngày 06/12/2002 Tòa án nhân dân thị xã Ninh Bình xử phạt 06 tháng tù về tội Đánh bạc.

- Bản án số 27 ngày 21/12/2004 Tòa án nhân dân thị xã Ninh Bình xử phạt 18 tháng tù về tội Đánh bạc.

- Bản án số 20 ngày 07/3/2006 Tòa án nhân dân thị xã Ninh Bình xử phạt 36 tháng tù về tội Đánh bạc.

- Bản án số 39 ngày 04/6/2012 Tòa án nhân dân huyện NQ xử phạt 35.000.000 đồng về tội Đánh bạc.

- Bản án số 69 ngày 30/11/2015 Tòa án nhân dân huyện NQ xử phạt 30 tháng tù về tội Đánh bạc. Ra trại ngày 14/12/2017.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 28/01/2020 đến ngày 06/02/2020 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình cho đến nay. “Có mặt”.

2. Nguyễn Văn P (Tên gọi khác: không), sinh năm 1970 tại Ninh Bình; Nơi cư trú: Số nhà N, đường PTD, phố PK, phường NS, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H và bà Trần Thị N; vợ: Phạm Thị C và 03 con;

Tiền án:

+ Bản án số 41 ngày 10/12/2002, Tòa án nhân dân huyện HL xử phạt 03 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Đánh bạc”.

+ Bản án số 23 ngày 13/3/2003, Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tổng hợp phần hình phạt 03 tháng tù của bản án số 41 ngày 10/12/2002 Tòa án nhân dân huyện HL buộc Nguyễn Văn P phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 08 năm 03 tháng tù.

+ Bản án số 129 ngày 25/9/2012 Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ra trại ngày 26/4/2018.

Tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 15/01/2011, Công an phường NS, thành phố Ninh Bình xử phạt 500.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 28/01/2020 đến ngày 06/02/2020 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình cho đến nay. “Có mặt”.

3. Bùi Văn S (Tên gọi khác: không), sinh năm 1978 tại Ninh Bình; nơi cư trú: Số nhà S, ngõ C, đường TQK, phố Hương Phúc, phường NS, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn T và bà Nguyễn Thị Tr; vợ: Bùi Thị L và 02 con;

Tiền án: Bản án số 99 ngày 25/7/2016, Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình xử phạt 09 tháng cải tạo không giam giữ về tội Đánh bạc.

Tiền sự: không;

Nhân thân: + Bản án số 45 ngày 23/10/2000 Tòa án nhân dân thị xã Ninh Bình xử phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội Trộm cắp tài sản.

+ Bản án số 39 ngày 10/9/2003 Tòa án nhân dân huyện HL xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Tổng hợp với phần hình phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo tại bản án số 45 ngày 23/10/2000 của Tòa án nhân dân thị xã Ninh Bình buộc Bùi Văn S phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 21 tháng tù. Ra trại ngày 26/4/2018.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 28/01/2020 đến ngày 06/02/2020 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình cho đến nay. “Có mặt”.

4. Đỗ Xuân H (Tên gọi khác: không), sinh năm 1984 tại LN, Hà Nam; nơi cư trú: Số nhà H, đường PTD, phố BĐ, phường NS, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình.Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Xuân L và bà Lương Thị C; Vợ, con: chưa có; Tiền án: không;

Tiền sự: Ngày 15/5/2017, Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình ra Quyết định số 17/QĐTA về áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 24 tháng. Chấp hành xong ngày 20/6/2019.

Nhân thân:

+ Bản án số 144 ngày 01/10/2012, Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình xử phạt 6.000.000 đồng về tội Đánh bạc.

+ Ngày 24/6/2016, Công an phường NS xử phạt cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

+ Ngày 04/7/2012, Công an phường BĐ xử phạt 2.000.000 đồng về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác.

+ Ngày 19/4/2017, Công an phường NP xử phạt 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 28/01/2020 đến ngày 06/02/2020 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình cho đến nay. “Có mặt”.

5. Vũ Duy Tr (Tên gọi khác: không), sinh năm 1970 tại Ninh Bình; nơi cư trú: Số nhà N, ngõ S, đường NCT, phố BS, phường BĐ, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Đạo Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Nguyên T và bà Đặng Thị H; vợ: Đặng Thị T và 03 con;

Tiền án, tiền sự: không Nhân thân:

+ Bản án số 60 ngày 12/7/2004, Tòa án nhân dân thị xã Ninh Bình xử phạt 24 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 tháng về tội “Đánh bạc”.

+ Bản án số 84 ngày 25/8/2006, Tòa án nhân dân thị xã Ninh Bình xử phạt 06 tháng tù về tội “Đánh bạc”. Tổng hợp với hình phạt 24 tháng tù cho hưởng án treo tại bản án số 60 ngày 12/7/2004 của Tòa án nhân dân thị xã Ninh Bình buộc Vũ Duy Tr phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 30 tháng tù. Ra trại ngày 04/10/2007.

+ Ngày 31/1/2013, Công an thành phố Ninh Bình xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi Đánh bạc.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 28/01/2020 đến ngày 06/02/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. “Có mặt”.

6. Nguyễn Văn Đ (Tên gọi khác: không), sinh năm 1970 tại Ninh Bình; nơi cư trú: Số nhà B, ngõ B, đường PTD, phố PĐ, phường NS, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Trần Thị B; vợ: Trần Thị D và 02 con;

Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 28/01/2020 đến ngày 06/02/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. “Có mặt”.

7. Đỗ Xuân J (Tên gọi khác: không), sinh năm 1982 tại Ninh Bình; nơi cư trú: Số nhà H, đường PTD, phố BĐ, phường NS, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Nghề nghiệp: công nhân làm việc tại nhà máy nhiệt điện Ninh Bình; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Xuân L và bà Lương Thị C; vợ: Vũ Thị T và 02 con; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 28/01/2020 đến ngày 06/02/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. “Có mặt”.

8. Bùi Văn R (Tên gọi khác: không), sinh năm 1985 tại Ninh Bình; nơi cư trú: Số nhà S, đường PTD, phố Hương Phúc, phường NS, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn H và bà Nguyễn Thị T; vợ: Vũ Thị Thanh B và 01 con; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 28/01/2020 đến ngày 06/02/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. “Có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ninh Đức T, Nguyễn Văn P, Vũ Duy Tr, Bùi Văn S, Đỗ Xuân J, Đỗ Xuân H, Nguyễn Văn Đ, Bùi Văn R có quan hệ anh em họ hàng và là bạn bè quen biết với nhau từ trước. Khoảng 15 giờ ngày 28/01/2020, Ninh Đức T, Nguyễn Văn P, Bùi Văn S, Đỗ Xuân H, Vũ Duy Tr lần lượt đến nhà Nguyễn Văn Đ để chúc tết. Quá trình ngồi uống nước, Đ, H, S, Tr chơi đánh “lốc” vui với nhau. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày Bùi Văn R đến nhà Đ chơi. Thấy có đông người thì Tr nói “Đông người thế này thằng P cắt quân vị làm tý xóc đĩa đi”, Đ, S, Hạnh, Tr, R đồng ý. Thấy vậy P liền lấy vỏ bao thuốc lá Vinataba có sẵn ở nhà Đ cắt thành 04 quân vị hình tròn có đường kính khoảng 01 cm, các quân vị đều có hai mặt, một mặt màu vàng, một mặt màu trắng rồi lấy 01 bảng vị, 01 chiếc bát, 01 chiếc đĩa sứ màu trắng trong bếp ăn để sử dụng vào việc đánh bạc. Sau đó cả hội trải chiếu ngồi dưới nền nhà trong bếp ăn nhà Đ để đánh bạc, thống nhất cách chơi như sau: Ninh Đức T là “nhà cái” sẽ thanh toán tiền thắng, thua cho những người chơi còn lại. Nguyễn Văn P là người “xóc cái” (P không tham gia đặt cược), sẽ cho 04 quân vị vào lòng đĩa sứ và úp bát sứ lên trên rồi cầm cả đĩa và bát úp lên lắc đi lắc lại vài lần sau đó đặt đĩa và bát úp xuống. Sau khi người “xóc cái” xóc đĩa xong, những người chơi có thể lựa chọn đặt cược theo hai cửa “chẵn” và “lẻ”. Trong đó “chẵn” là số lượng quân vị màu trắng và màu vàng đều phải là số chẵn, gồm các trường hợp 04 trắng, 04 vàng hoặc 02 trắng, 02 vàng. “Lẻ” là số lượng quân vị màu trắng và màu vàng đều là số lẻ gồm các trường hợp 03 trắng - 01 vàng hoặc 03 vàng - 01 trắng. Nếu chọn “chẵn” người chơi sẽ đặt tiền cược vào bên phải người “xóc cái”, nếu chọn “lẻ” người chơi sẽ đặt tiền vào bên trái người “xóc cái”. Số tiền cược tối thiểu mỗi ván là 100.000 đồng, tối đa không giới hạn. Sau khi những người chơi đã lần lượt đặt cược xong thì người “xóc cái” sẽ mở bát úp để thấy kết quả. Người nào đặt đúng cửa “chẵn/ lẻ” là người thắng cuộc và sẽ được “nhà cái” trả thêm số tiền bằng số tiền đã đặt cược, nếu thua sẽ bị mất số tiền đặt cược ván đó cho “nhà cái”. Ngoài cách đặt cược theo cửa “chẵn/lẻ” như trên thì người chơi còn có thể đặt cược theo bảng vị. Bảng vị được chia làm 04 hình chữ nhật nhỏ trong đó gồm: 01 ô có 04 hình tròn đỏ; 01 ô có 04 hình tròn trắng; 01 ô có 03 hình tròn đỏ, 01 hình tròn trắng; 01 ô có 03 hình tròn trắng, 01 hình tròn đỏ. Nếu người chơi đặt ô có 04 hình tròn đỏ hoặc 04 hình tròn trắng và trùng với kết quả sẽ là người thắng và được “nhà cái” trả thêm gấp 10 lần số tiền đã đặt cược. Nếu đặt ô có 03 hình tròn đỏ cùng 01 hình tròn màu trắng hoặc ô có 03 hình tròn màu trắng cùng 01 hình tròn màu đỏ và trùng với kết quả thì “nhà cái” phải trả cho người chơi thêm số tiền gấp 3,5 lần số tiền đã đặt cược. Tuy nhiên quá trình đánh bạc không có ai đặt cược theo bảng vị.

Đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, Đỗ Xuân J đến nhà Đ chơi, thấy mọi người đang đánh bạc thì J xin vào tham gia đánh bạc cùng. Trước khi đánh bạc Tr có 28.000.000 đồng, J có 10.000.000 đồng, Đ có 8.000.000 đồng, R có 3.600.000 đồng, Tr có khoảng 25.000.000 đồng, H có khoảng 5.000.000 đồng, S có khoảng 5.000.000 đồng. Cả hội đánh bạc đến khoảng 19 giờ 15 phút cùng ngày thì bị tổ công tác Công an thành phố Ninh Bình phối hợp với Công an phường NS, thành phố Ninh Bình làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang. Thu giữ tại chiếu nơi các bị can ngồi đánh bạc số tiền 51.500.000 đồng, 01 chiếc bát sứ màu trắng, 01 chiếc đĩa sứ màu trắng, 04 quân vị hình tròn, đường kính khoảng 01 cm được cắt ra từ vỏ bao thuốc lá Vinataba, 01 bảng vị kích thước khoảng 60x40 cm bằng vải bạt màu xanh. Thu giữ tại túi quần phía trước bên trái của Ninh Đức T số tiền 5.500.000 đồng; thu giữ trong người Đỗ Xuân H số tiền 6.800.000 đồng; thu giữ trong người Đỗ Xuân J số tiền 13.600.000 đồng; thu giữ trong người Bùi Văn S số tiền 1.120.000 đồng; thu giữ trong người Nguyễn Văn Đ số tiền 8.150.000 đồng; thu giữ trong người Bùi Văn R số tiền 100.000 đồng. Tr, H, J, S, Đ, R đều khai nhận đây là tiền sử dụng vào việc đánh bạc. Như vậy tổng số tiền các bị can sử dụng vào việc đánh bạc là 86.770.000 đồng.

Ngoài ra còn thu giữ trong người Vũ Duy Tr số tiền 12.620.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s; thu giữ tại túi áo khoác bên trái và túi áo khoác bên phải của Ninh Đức T số tiền 88.240.000 đồng, 01 ví da, 01 điện thoại di động Nokia 230, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X; thu giữ trong người Nguyễn Văn P số tiền 18.050.000 đồng, 01 ví da, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280; thu giữ của Đỗ Xuân H 01 ví da, 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO; thu giữ của Đỗ Xuân J 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7; thu giữ của Nguyễn Văn Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus; thu giữ của Bùi Văn R 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus; thu giữ của Bùi Văn S 01 ví da, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A50. Các bị can đều khai nhận đây là tiền, tài sản không liên quan đến việc đánh bạc.

Quá trình điều tra các bị can Ninh Đức T, Nguyễn Văn P, Bùi Văn S, Đỗ Xuân H, Vũ Duy Tr, Nguyễn Văn Đ, Đỗ Xuân J, Bùi Văn R đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s thu giữ của Vũ Duy Tr;

01 ví da, 01 điện thoại di động Nokia 230, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X thu giữ của Ninh Đức T; 01 ví da, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 thu giữ của Nguyễn Văn P; 01 ví da, 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO thu giữ của Đỗ Xuân H; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 thu giữ của Đỗ Xuân J; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus thu giữ của Nguyễn Văn Đ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus thu giữ của Bùi Văn R; 01 ví da, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A50 thu giữ của Bùi Văn S không liên quan đến việc đánh bạc. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Ninh Bình đã trả lại cho các bị can và những người được ủy quyền theo quy định.

Đối với 01 chiếc bát sứ màu trắng, 01 chiếc đĩa sứ màu trắng, 04 quân vị, 01 bảng vị cùng số tiền 86.770.000 đồng các đối tượng sử dụng vào việc đánh bạc; số tiền 118.910.000 đồng thu giữ của các bị can không sử dụng vào việc đánh bạc. Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Ninh Bình đã chuyển giao Chi cục thi hành án dân sự thành phố Ninh Bình để xử lý cùng vụ án.

Tại bản cáo trạng số 82/CT-VKS ngày 19/5/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình truy tố Ninh Đức T, Nguyễn Văn P, Bùi Văn S, Đỗ Xuân H, Vũ Duy Tr, Nguyễn Văn Đ, Đỗ Xuân J, Bùi Văn R về tội “Đánh bạc” - Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Ninh Đức T, Bùi Văn S, Đỗ Xuân H, Vũ Duy Tr, Nguyễn Văn Đ, Đỗ Xuân J, Bùi Văn R.

- Áp dụng điểm b, điểm d khoản 2, khoản 3 Điều 321 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn P.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên tham gia phiên toà giữ nguyên quyết định như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố các bị cáo Ninh Đức T, Nguyễn Văn P, Bùi Văn S, Đỗ Xuân H, Vũ Duy Tr, Nguyễn Văn Đ, Đỗ Xuân J, Bùi Văn R phạm tội Đánh bạc.

- Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm s, t khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Ninh Đức T từ 24 đến 27 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt, tạm giữ 28/01/2020. Phạt bổ sung từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.

- Áp dụng điểm b, d khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn P từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt, tạm giữ 28/01/2020.

- Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Bùi Văn S từ 21 đến 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt, tạm giữ 28/01/2020. Phạt bổ sung từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.

- Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Đỗ Xuân H từ 18 đến 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt, tạm giữ 28/01/2020. Phạt bổ sung từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.

- Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Vũ Duy Tr 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm. Thời hạn tính từ ngày tuyên án. Giao bị cáo Vũ Duy Tr cho Uỷ ban nhân dân phường BĐ, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách; Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Phạt bổ sung từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.

- Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự:

+ Xử phạt bị cáo Đỗ Xuân J 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm. Thời hạn tính từ ngày tuyên án. Giao bị cáo Đỗ Xuân J cho Uỷ ban nhân dân phường NS, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách; Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Phạt bổ sung từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm. Thời hạn tính từ ngày tuyên án. Giao bị cáo Nguyễn Văn Đ cho Uỷ ban nhân dân phường NS, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách; Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Phạt bổ sung từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.

+ Xử phạt bị cáo Bùi Văn R 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm. Thời hạn tính từ ngày tuyên án. Giao bị cáo Bùi Văn R cho Uỷ ban nhân dân phường NS, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách; Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Phạt bổ sung từ 10.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc bát sứ màu trắng, 01 chiếc đĩa sứ màu trắng, 04 quân vị, 01 bảng vị các đối tượng sử dụng để đánh bạc;

+ Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền các bị cáo dùng để đánh bạc là 86.770.000 đồng.

+ Trả lại cho Vũ Duy Tr số tiền 12.620.000 đồng; Ninh Đức T số tiền 88.240.000 đồng; Nguyễn Văn P số tiền 18.050.000 đồng nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo việc thi hành án.

- Về án phí hình sự sơ thẩm: buộc các bị cáo Ninh Đức T, Nguyễn Văn P, Bùi Văn S, Đỗ Xuân H, Vũ Duy Tr, Nguyễn Văn Đ, Đỗ Xuân J, Bùi Văn R phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi đánh bạc của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, các bị cáo không có tranh luận gì với luận tội của đại diện Viện kiểm sát và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Ninh Bình, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Ninh Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa các bị cáo Ninh Đức T, Nguyễn Văn P, Bùi Văn S, Đỗ Xuân H, Vũ Duy Tr, Nguyễn Văn Đ, Đỗ Xuân J, Bùi Văn R đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và đồng phạm đúng như nội dung bản cáo trạng truy tố; lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nhau, cơ bản phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên toà. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19 giờ 15 phút ngày 28/01/2020, tại nhà của Nguyễn Văn Đ ở số nhà B ngõ N đường PTD, phố PĐ, phường NS, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Ninh Đức T, Nguyễn Văn P, Bùi Văn S, Đỗ Xuân H, Vũ Duy Tr, Nguyễn Văn Đ, Đỗ Xuân J, Bùi Văn R có hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh “xóc đĩa” được thua bằng tiền, với tổng số tiền sử dụng vào việc đánh bạc là 86.770.000 đồng bị phát hiện, bắt quả tang Hành vi của các bị cáo Ninh Đức T, Nguyễn Văn P, Bùi Văn S, Đỗ Xuân H, Vũ Duy Tr, Nguyễn Văn Đ, Đỗ Xuân J, Bùi Văn R xâm hại đến trật tự công cộng là khách thể được luật hình sự bảo vệ. Cả tám bị cáo đều có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ đánh bạc (đánh xóc đĩa) được thua bằng tiền là một hình thức đánh bạc bị Nhà nước cấm nhưng vì lợi nhuận, các bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Đối chiếu với quy định của pháp luật hình sự thấy hành vi, tội danh và điều khoản áp dụng tại cáo trạng, lời luận tội, chứng cứ buộc tội các bị cáo của Kiểm sát viên trình bày tại phiên toà là có căn cứ. Hành vi đánh bạc với tổng số tiền 86.770.000 đồng của các bị cáo Ninh Đức T, Nguyễn Văn P, Bùi Văn S, Đỗ Xuân H, Vũ Duy Tr, Nguyễn Văn Đ, Đỗ Xuân J, Bùi Văn R đã phạm tội “Đánh bạc”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 321 của Bộ luật Hình sự “Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên”. Bị cáo Nguyễn Văn P đã có 03 tiền án về các tội “Trộm cắp tài sản”, “Mua bán trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích, nay lại phạm tội “Đánh bạc”, thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 321 của Bộ luật hình sự.

Ngoài xâm hại đến khách thể được luật hình sự bảo vệ, hành vi của các bị cáo còn là nguyên nhân phát sinh của nhiều loại tội phạm khác, gây mất an ninh trật tự, ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội. Từ việc đánh bạc đã dẫn đến tiêu tán tài sản, kiêt quệ kinh tế của nhiều cá nhân và gia đình. Để bảo vệ trật tự xã hội, có tác dụng giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa chung thì việc truy tố, đưa ra xét xử và buộc các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự là cần thiết.

* Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo Ninh Đức T, Nguyễn Văn P, Đỗ Xuân H, Vũ Duy Tr, Nguyễn Văn Đ, Đỗ Xuân J, Bùi Văn R ngoài tình tiết tăng nặng định khung hình phạt, các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự khác; Bị cáo Bùi Văn S ngoài tình tiết tăng nặng định khung hình phạt, bị cáo còn có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo Ninh Đức T, Nguyễn Văn P, Bùi Văn S, Đỗ Xuân H, Vũ Duy Tr, Nguyễn Văn Đ, Đỗ Xuân J, Bùi Văn R được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo” được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Các bị cáo Ninh Đức T, Bùi Văn S, Đỗ Xuân H, Vũ Duy Tr được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án” quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; Bị cáo Nguyễn Văn P có mẹ là người có công trong thời kỳ kháng chiến được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng hai; Các bị cáo Bùi Văn S, Vũ Duy Tr, Đỗ Xuân J, Đỗ Xuân H, Nguyễn Văn Đ, Bùi Văn R gia đình có hoàn cảnh kinh tế rất khó khăn, vợ bị cáo không có công ăn việc làm ổn định, không có thu nhập, bố mẹ già quá tuổi lao động các bị cáo đều là lao động chính trong gia đình (có xác nhận của chính quyền địa phương. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự cần áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

* Về tính chất đồng phạm: Trong vụ án có nhiều bị cáo tham gia nhưng không mang tính tổ chức vì các bị cáo tình cờ gặp nhau, rủ nhau đánh bạc là bột phát, đồng phạm tính chất giản đơn. Về vai trò của từng bị cáo cụ thể như sau: Bị cáo Ninh Đức T là người rủ các bị cáo khác tham gia đánh bạc,bị cáo Nguyễn Văn P là người chuẩn bị công cụ để đánh bạc và là người trực tiếp sóc đĩa. Do đó, hai bị cáo có vai trò đầu vụ. Các bị cáo Nguyễn Văn Đ chủ nhà số tiền tham gia đánh bạc 08 triệu đồng, Vũ Duy Tr số tiền tham gia đánh bạc 28 triệu đồng và Đỗ Xuân J số tiền tham gia đánh bạc 10 triệu đồng; các bị cáo có vai trò gần ngang nhau và có vai trò sau bị cáo Tr và bị cáo P. Các bị cáo Đỗ Xuân H, Bùi Văn S và Bùi Văn R có số tiền tham gia ít hơn so với Đ, Tr và J; các bị cáo có vai trò sau bị cáo Đ, bị cáo Tr và bị cáo J.

* Về hình phạt: Căn cứ quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo; Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt chính là phạt tù đối với các bị cáo là phù hợp quy định của pháp luật.

- Đối với bị cáo Ninh Đức T mặc dù không có tiền án, tiền sự nhưng có nhân thân xấu, nhiều lần bị xử lý hình sự về tội đánh bạc là người khởi xướng, số tiền tham gia đánh bạc khoảng 25 triệu đồng; Các bị cáo Nguyễn Văn P, Bùi Văn S và Đỗ Xuân H đều có nhân thân xấu. Trong đó, bị cáo Nguyễn Văn P có 02 tình tiết tăng nặng định khung hình phạt, là người chuẩn bị công cụ phạm tội và là người trực tiếp sóc đĩa; bị cáo Bùi Văn S có 01 tiền án về tội Đánh bạc; bị cáo Đỗ Xuân H có 01 tiền sự đi cai nghiện bắt buộc; cần cách ly các bị cáo Ninh Đức T, Nguyễn Văn P, Bùi Văn S và Đỗ Xuân H ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo các bị cáo từ bỏ cờ bạc, trở thành công dân nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.

Các bị cáo Ninh Đức T, Bùi Văn S và Đỗ Xuân H có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, nên áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo là thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

- Đối với các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Vũ Duy Tr, Đỗ Xuân J và Bùi Văn R không có tiền án, tiền sự; có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự; có nơi cư trú ổn định rõ ràng, không cần thiết cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, cho các bị cáo cải tạo tại địa phương, dưới sự giám sát của chính quyền địa phương cũng đủ điều kiện để các bị cáo tự cải tạo trở thành công dân tốt, sống có ích cho gia đình và xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo Ninh Đức T, Bùi Văn S, Đỗ Xuân H, Vũ Duy Tr, Nguyễn Văn Đ, Đỗ Xuân J, Bùi Văn R theo quy định tại khoản 3 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Đối với bị cáo Nguyễn Văn P không huy động tiền để đánh bạc; vì vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[3] Về xử lý vật chứng:

- 01 chiếc bát sứ màu trắng, 01 chiếc đĩa sứ màu trắng, 04 quân vị, 01 bảng vị là công cụ các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu và tiêu hủy.

- Số tiền 86.770.000 đồng các bị cáo dùng để đánh bạc cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

[4] Các vấn đề khác:

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s thu giữ của Vũ Duy Tr; 01 ví da, 01 điện thoại di động Nokia 230, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X thu giữ của Ninh Đức T; 01 ví da, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 thu giữ của Nguyễn Văn P; 01 ví da, 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO thu giữ của Đỗ Xuân H; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 thu giữ của Đỗ Xuân J; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus thu giữ của Nguyễn Văn Đ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus thu giữ của Bùi Văn R; 01 ví da, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A50 thu giữ của Bùi Văn S không liên quan đến việc đánh bạc. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Ninh Bình đã trả lại cho các bị cáo và những người được ủy quyền là có căn cứ, đúng pháp luật.

- Số tiền thu giữ của các bị cáo không sử dụng vào việc đánh bạc: Vũ Duy Tr số tiền 12.620.000 đồng; Ninh Đức T số tiền 88.240.000 đồng; Nguyễn Văn P số tiền 18.050.000 đồng, cần trả lại cho các bị cáo, nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo việc thi hành án.

[5] Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc các bị cáo Ninh Đức T, Nguyễn Văn P, Bùi Văn S, Đỗ Xuân H, Vũ Duy Tr, Nguyễn Văn Đ, Đỗ Xuân J, Bùi Văn R phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[6] Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ:

- Điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm s, t khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Ninh Đức T.

- Điểm b, d khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn P.

- Điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Bùi Văn S.

- Điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Đỗ Xuân H.

- Điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm s, t khoản, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Vũ Duy Tr.

- Điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Đỗ Xuân J, Nguyễn Văn Đ, Bùi Văn R.

Tuyên bố các bị cáo: Ninh Đức T, Nguyễn Văn P, Bùi Văn S, Đỗ Xuân H, Vũ Duy Tr, Nguyễn Văn Đ, Đỗ Xuân J, Bùi Văn R phạm tội “Đánh bạc”

Xử phạt:

- Bị cáo Ninh Đức T 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giữ 28/01/2020. Phạt bổ sung bị cáo 20.000.000 (Hai mươi triệu) đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

- Bị cáo Nguyễn Văn P 03(Ba) năm 03(Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giữ 28/01/2020.

- Bị cáo Bùi Văn S 21 (Hai mươi mốt) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giữ 28/01/2020. Phạt bổ sung bị cáo 20.000.000 (Hai mươi triệu) đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

- Bị cáo Đỗ Xuân H 16 (Mười sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giữ 28/01/2020. Phạt bổ sung bị cáo 20.000.000 (Hai mươi triệu) đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

- Bị cáo Vũ Duy Tr 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm. Thời hạn tính từ ngày tuyên án (26/6/2020).

Bị cáo Vũ Duy Tr phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự. Giao bị cáo Vũ Duy Tr cho Uỷ ban nhân dân phường BĐ, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách; Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì việc giám sát, giáo dục thực hiện theo quy định tại khoản 1 điều 69 Luật Thi hành án hình sự.Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo Vũ Duy Tr lại cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo Vũ Duy Tr phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc bị cáo Vũ Duy Tr phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự. Phạt bổ sung bị cáo 20.000.000 (Hai mươi triệu) đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

- Bị cáo Đỗ Xuân J 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm. Thời hạn tính từ ngày tuyên án (26/6/2020).

Bị cáo Đỗ Xuân J phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự. Giao bị cáo Đỗ Xuân J cho Uỷ ban nhân dân phường NS, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách; Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì việc giám sát, giáo dục thực hiện theo quy định tại khoản 1 điều 69 Luật Thi hành án hình sự.Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo Đỗ Xuân J lại cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo Đỗ Xuân J phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc bị cáo Đỗ Xuân J phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự. Phạt bổ sung bị cáo 20.000.000 (Hai mươi triệu) đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

- Bị cáo Nguyễn Văn Đ 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm. Thời hạn tính từ ngày tuyên án (26/6/2020).

Bị cáo Nguyễn Văn Đ phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự. Giao bị cáo Nguyễn Văn Đ cho Uỷ ban nhân dân phường NS, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách; Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì việc giám sát, giáo dục thực hiện theo quy định tại khoản 1 điều 69 Luật Thi hành án hình sự.Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo Nguyễn Văn Đ lại cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự. Phạt bổ sung bị cáo 20.000.000 (Hai mươi triệu) đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

- Bị cáo Bùi Văn R 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm. Thời hạn tính từ ngày tuyên án (26/6/2020).

Bị cáo Bùi Văn R phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự. Giao bị cáo Bùi Văn R cho Uỷ ban nhân dân phường NS, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách; Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì việc giám sát, giáo dục thực hiện theo quy định tại khoản 1 điều 69 Luật Thi hành án hình sự.Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo Bùi Văn R lại cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo Bùi Văn R phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc bị cáo Bùi Văn R phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự. Phạt bổ sung bị cáo 10.000.000 (Mười triệu) đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bát sứ màu trắng, 01 đĩa sứ màu trắng, 04 quân vị hình tròn, 01 bảng vị hình chữ nhật các đối tượng sử dụng để đánh bạc;

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền các bị cáo dùng để đánh bạc là 86.770.000 (Tám mươi sáu triệu bảy trăm bảy mươi nghìn) đồng.

- Trả lại cho Vũ Duy Tr số tiền 12.620.000 (Mười hai triệu sáu trăm hai mươi nghìn) đồng; Ninh Đức T số tiền 88.240.000 (Tám mươi tám triệu hai trăm bốn mươi nghìn) đồng; Nguyễn Văn P số tiền 18.050.000 (Mười tám triệu không trăm năm mươi nghìn) đồng, nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo việc thi hành án.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 09/6/2020 và ủy nhiệm chi lập ngày 08/6/2020).

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc các bị cáo Ninh Đức T, Nguyễn Văn P, Bùi Văn S, Đỗ Xuân H, Vũ Duy Tr, Nguyễn Văn Đ, Đỗ Xuân J, Bùi Văn R mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án (26/6/2020).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

344
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 93/2020/HS-ST ngày 26/06/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:93/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về