Bản án 93/2020/HS-ST ngày 24/07/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 93/2020/HS-ST NGÀY 24/07/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 80/2020/TLST-HS ngày 12 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 129/2020/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đôi vơi các bị cáo:

1. Hoàng Tâm Đ; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1976, tại huyện Y, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Xóm C, xã T, huyện Y, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Kim H và bà Nguyễn Thị N; có vợ: Nguyễn Thị L và 03 con, con lớn nhất sinh năm 2007, con nhỏ nhất sinh năm 2014; tiền án, tiền sự, nhân thân: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/02/2020 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Phạm Kiên Toàn, Luật sư Văn phòng luật sư Trung Vinh thuộc Đoàn luật sư tỉnh Nghệ An bào chữa cho Hoàng Tâm Đ, có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Thị L; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1988, tại huyện Y, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Xóm C, xã T, huyện Y, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Tiến A (đã mất) và bà Trương Thị P; có chồng: Hoàng Tâm Đ và 03 con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/02/2020 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Văn Danh, Luật sư Văn phòng Luật sư Văn Danh và Cộng sự thuộc Đoàn luật sư tỉnh Nghệ An bào chữa cho Nguyễn Thị L, có mặt tại phiên tòa.

3. Trần Thị H; tên gọi khác: Không; sinh ngày: 22/8/2003, tại huyện Q, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Xóm 3, xã S, huyện Q, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn L và bà Trần Thị H (bố mẹ của bị cáo đã ly hôn); chồng, con: Chưa; tiền án, tiền sự, nhân thân: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/02/2020 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Ông Trần Văn L; sinh năm 1982; trú quán: Xóm 3, xã S, huyện Q, tỉnh Nghệ An; bà Trần Thị H; sinh năm 1983; trú quán: Xóm T, xã H, huyện Y, tỉnh Nghệ An là bố mẹ đẻ của bị cáo H, có mặt tại phiên tòa.

- Đại diện của cơ quan, tổ chức nơi bị cáo lao động, sinh hoạt, cư trú: Bà Nguyễn Thị A; sinh năm 1992; trú quán: Thôn 8, xã S, huyện Q, tỉnh Nghệ An, chức vụ: Phó Bí thư đoàn xã S, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Phan Thị Thanh, Trợ giúp viên pháp lý thuộc Chi nhA số 1 – Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Nghệ An, bào chữa cho Trần Thị H, có mặt tại phiên tòa.

- Người chứng kiến: Anh Lê Đức S; sinh năm 1974; nơi cư trú: Xóm 6, xã D1, huyện D2, tỉnh Nghệ An, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 30 phút, ngày 24 tháng 02 năm 2020, tại xóm 11, xã D1, huyện D2, tỉnh Nghệ An. Tổ công tác Công an huyện D2 phát hiện bắt quả tang đối tượng Trần Thị H, sinh năm 2003 trú tại xóm 3, xã S, huyện Q, tỉnh Nghệ An đang có hành vi mua bán trái phép chất ma túy, Tổ công tác thu giữ tại túi áo khoác bên phải, phía trước của Trần Thị H đang mặc 01 gói ni lông màu xanh, bên ngoài được quấn băng keo màu đen, bên trong chứa các viên nén màu hồng (nghi ma túy); 01 xe máy nhãn hiệu Honda Vison màu đỏ, biển kiểm soát 37P1-15047; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s màu hồng.

Tại cơ quan điều tra, Trần Thị H khai nhận: toàn bộ số ma túy thu giữ trong người H là của Nguyễn Thị L, sinh năm 1988, trú tại xóm C, xã T, huyện Y, tỉnh Nghệ An, nhờ H đưa ra thị trấn G, huyện Q để bán. Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp nhà ở của Nguyễn Thị L, tại xóm C, xã T, huyện Y, tỉnh Nghệ An phát hiện thu giữ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đỏ; 01 hộp kim loại để trên bể nước bên trong có 02 gói ni lông, bên ngoài được quấn băng keo màu đen, bên trong có chứa các viên nén màu hồng (nghi ma túy); 01 gói ni lông màu xanh, bên trong có chứa các viên nén màu hồng (nghi ma túy) để trong giỏ nhựa ở gốc cây Sanh, bên cạnh bể nước nhà Nguyễn Thị L; 01 gói ni lông màu trắng, bên ngoài quấn băng keo màu đen, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng (nghi ma túy dạng đá) treo ở trên cành cây Sanh, nằm phía ngoài khu vực nhà ở của Hoàng Tâm Đ và Nguyễn Thị L.

Khoảng 03 giờ 00 phút ngày 25/02/2020, Hoàng Tâm Đ sinh năm 1976, trú tại xóm C, xã T, huyện Y, tỉnh Nghệ An (chồng Nguyễn Thị L) đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện D2, đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như sau: Đầu năm 2020 do làm ăn thua lỗ, Hoàng Tâm Đ nảy sinh ý định mua ma túy, bán kiếm lời. Thông qua các đối tượng nghiện ma túy trên địa bàn huyện Y, Đ biết được có người đàn ông tên Nguyễn Văn A, sinh năm 1974, trú tại xã Đ, huyện Y, tỉnh Nghệ An có bán ma túy, Đ xin số điện thoại của người đàn ông tên A. Khoảng 18 giờ, ngày 17/02/2020, Đ gọi điện cho Nguyễn Văn A đặt mua 03 gói ma túy hồng phiến, giá 4 triệu đồng/01 gói. Sau khi đặt mua ma túy của A, Đ đi xe máy Vison, biển kiểm soát 37P1-15047 đến gặp Nguyễn Văn A tại đoạn đường cách khu vực cầu Lồi (xã H, huyện D2) khoảng 1 km. Tại đây, Đ mua của A 03 gói ma túy hồng phiến (02 gói màu xanh, 01 gói màu hồng) với giá 12 triệu đồng. Đ mang ma túy về nhà và quấn băng dính màu đen bên ngoài ba gói ma túy. Sau đó, Đ cất 02 gói ma túy hồng phiến (01 gói màu xanh và 01 gói màu hồng) vào trong hộp kim loại đặt ở giữa bể nước và tường nhà tắm. Gói ma túy hồng phiến còn lại, Đ bỏ trong giỏ nhựa để dưới gốc cây Sanh gần bể nước. Ngày 20/02/2020, Hoàng Tâm Đ nói với Nguyễn Thị L (vợ Đ) biết việc Đ mua ma túy của A đem về để bán và chỉ vị trí cất giấu ma túy cho L biết. Đ nói với L “khi anh không ở nhà nếu có người gọi lấy hàng (ma túy) thì em ra lấy hàng cho anh để anh về lấy giao cho khách” L đồng ý.

Ngày 23/02/2020, Trần Thị H đến nhà L và Đ chơi rồi nghỉ tại nhà L và Đ. Khoảng 11 giờ, ngày 24/02/2020 Đ nói với L chỉ vị trí giấu ma túy cho H tại hộp sắt và giỏ nhựa. Sau khi L chỉ vị trí cất giấy ma túy cho H xong, L và H vào nhà gặp Đ. Đ nói với H “Khi nào anh chị nhắn thì em lấy hàng (ma túy) đưa ra cho anh chị để anh chị giao cho khách”, H đồng ý. Khoảng 14 gờ, ngày 24/02/2020, Đ và L đi xuống thị trấn G, đến khoảng 17 giờ 30 phút (cùng ngày) có người đàn ông tên T gọi điện cho Đ đặt mua 60 viên ma túy hồng phiến. Đ nói với T 60 viên hồng phiến giá 2.500.000 đồng, T đồng ý. Sau khi T đặt mua ma túy, Đ nói với L nhắn tin cho H lấy 60 viên hồng phiến đưa ra thị trấn G để bán. L đã nhắn tin cho H qua phần mềm Messenger Faceboook, nội dung “lấy 60 viên hồng phiến đưa ra thị trấn G cho L”. Sau khi nhận được tin nhắn của L, H đến vị trí để hộp sắt ở giữa bể nước và tường nhà tắm lấy 01 gói ma túy hồng phiến đưa vào nhà rồi đếm đủ số lượng 60 viên hồng phiến bỏ vào bao ni lông màu xanh, bên ngoài quấn băng dính màu đen. Số ma túy hồng phiến còn lại, H cất vào trong hộp sắt để lại vị trí cũ. Sau đó H điều khiển xe máy Vison biển kiểm soát: 37P1-150.47 đưa 60 viên ma túy hồng phiến ra cho Đ và L. Trên đường đi đến khu vực xã D1, huyện D2 thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang, thu giữ gói ma túy có 60 viên hồng phiến. Khám xét nhà ở của L và Đ, Cơ quan điều tra phát hiện thu giữ: 01 hộp kim loại để trên bể nước bên trong có 02 gói ni lông, bên ngoài được quấn băng keo màu đen, bên trong có chứa các viên nén màu hồng (nghi ma túy); 01 gói ni lông màu xanh, bên trong có chứa các viên nén màu hồng (nghi ma túy) để trong giỏ nhựa ở gốc cây Sanh, bên cạnh bể nước nhà Nguyễn Thị L; 01 gói ni lông màu trắng, bên ngoài được quấn băng keo màu đen, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng (nghi ma túy dạng đá) treo ở trên cành cây Sanh.

Kết luận giám định số 318/KL-PC09 (Đ2-MT) ngày 02/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An (Bút lục số 151) kết luận:

Mẫu viên nén màu hồng thu giữ của Trần Thị H, gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine). Số viên nén màu hồng (01 gói) thu giữ của Trần Thị H có tổng khối lượng là 6,2 g (sáu phẩy hai gam).

Kết luận giám định số 319/KL-PC09 (Đ2-MT) ngày 02/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận:

Ba mẫu viên nén màu hồng (ký hiệu M1, M2, M3) thu giữ khi khám xét chỗ ở của Nguyễn Thị L, gửi tới giám định đều là ma túy (Methamphetamine). Số viên nén màu hồng (03 gói) thu giữ khi khám xét chỗ ở của Nguyễn Thị L có tổng khối lượng là 44,15 g (bốn mươi bốn phẩy mười lăm gam).

Mẫu các hạt tinh thể màu trắng thu giữ khi khám xét chỗ ở của Nguyễn Thị L gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine). Các hạt tinh thể màu trắng thu giữ khi khám xét chỗ ở của Nguyễn Thị L, có tổng khối lượng là 4,7 g (bốn phẩy bảy gam).

Vật chứng thu giữ trong vụ án:

- Thu giữ của Trần Thị H 01 gói ma túy (Methamphetamine) khối lượng 6,2 gam (đã lấy 0,6 gam gửi giám định, còn lại 5,6 gam); 01 xe máy nhãn hiệu Honda Vison, màu đỏ, biển kiểm soát: 37P1-150.47; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s màu hồng;

- Thu giữ của Nguyễn Thị L, Hoàng Tâm Đ 03 gói ma túy (Methamphetamine) khối lượng 44,15 gam (đã lấy 1,7 gam gửi giám định, còn lại 42,45 gam); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đỏ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen; thu giữ trên cành cây Sanh 01 gói ma túy (Methamphetamine) khối lượng 4,7 gam (đã lấy 0,5 gam gửi giám định, còn lại 4,2 gam). Số vật chứng nêu trên hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng Cục thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An.

Cáo trạng số 109/CT-VKS-P1ngày 09 tháng 6 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An truy tố các bị cáo Hoàng Tâm Đ và Nguyễn Thị L về tội: "Mua bán trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự. Truy tố bị cáo Trần Thị H về tội: "Mua bán trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An xác định việc truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan, sai và giữ nguyên nội dung Cáo trạng truy tố, bổ sung thêm tình tiết giảm nhẹ tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo; đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251, điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Hoàng Tâm Đ từ 15 năm đến 15 năm 06 tháng tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị L từ 11 năm đến 12 năm tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251, khoản 1 Điều 101; điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Thị H từ 02 năm đến 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo; tiêu hủy số lượng ma túy tịch thu trong vụ án, tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước 01 xe máy và 03 chiếc điện thoại di động; tuyên án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Hoàng Tâm Đ trình bày lời bào chữa: Luật sư nhất trí về tội danh “Mua bán trái phép chất ma túy” mà Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo Đ, nhưng không nhất trí áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; đề nghị áp dụng thêm Điều 54 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Đ dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng, thấp hơn mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát vì bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị L trình bày lời bào chữa: Luật sư nhất trí về tội danh“Mua bán trái phép chất ma túy” mà Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo L, nhưng không nhất trí áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự ; đề nghị áp dụng thêm Điều 54 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo L dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng, thấp hơn mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát vì bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s, t, khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo có vai trò thứ yếu trong vụ án, giữa bị cáo L và bị cáo Đ có quan hệ vợ chồng nên cần áp dụng chính sách nhân đạo của pháp luật để xét xử đối với bị cáo. Về vật chứng, đề nghị trả lại chiếc xe máy cho bị cáo L, Đ vì không có sự thỏa thuận của bị cáo L, Đ cho bị cáo H sử dụng xe máy đi bán ma túy.

Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo Trần Thị H trình bày lời bào chữa: Trợ giúp viên nhất trí về tội danh “Mua bán trái phép chất ma túy” mà Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo khi phạm tội là người chưa thành niên, phạm tội do bị xúi dục, bị cáo phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự, khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, có thành tích tố giác tội phạm, giúp Bộ đội biên phòng khám phá nhanh vụ án, gia đình bị cáo bố mẹ ly hôn từ khi bị cáo đang còn nhỏ, bị cáo về sống với bà ngoại tại huyện Y nên hoàn cảnh rất khó khăn, dễ bị người khác xúi dục, lợi dụng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng mức án thấp hơn mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, đề nghị xử phạt bị cáo H 18 tháng tù.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Ông Trần Văn L và bà Trần Thị H là bố mẹ đẻ của bị cáo H, nhận trách nhiệm có lỗi trong việc quản lý, trông nom con và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo H, để bị cáo sớm hòa nhập cộng đồng.

Đại diện của cơ quan, tổ chức nơi bị cáo lao động, sinh hoạt, cư trú: Bà Nguyễn Thị A, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo H.

Qua đối đáp, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh, điều luật áp dụng và mức hình phạt đối với các bị cáo như trong cáo trạng và lời luận tội tại phiên tòa.

Các bị cáo đồng ý với quan điểm của người bào chữa, không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về tội danh và mức hình phạt, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo được hưởng mức án thấp hơn mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện D2, Công an tỉnh Nghệ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện D2, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, không ai có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Hoàng Tâm Đ, Nguyễn Thị L và Trần Thị H đều thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An truy tố là đúng. Lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp về thời gian, địa điểm thực hiện hành vi phạm tội, phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, vật chứng thu giữ, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú và các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 18 giờ ngày 17/02/2020, Hoàng Tâm Đ mua của một người đàn ông tên A (không rõ lai lịch, địa chỉ) 03 gói ma túy (Methamphetamine), tổng khối lượng 50,35 gam với giá 12.000.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, Đ đưa về nhà cất dấu 02 gói ma túy vào trong hộp sắt trên bể nước sát tường nhà tắm; gói còn lại Đ bỏ trong giỏ nhựa để dưới gốc cây Sanh gần bể nước. Đ nói với vợ là Nguyễn Thị L mục đích mua ma túy đưa về nhà cất dấu để bán kiếm lời, L đồng ý. Đ chỉ cho L biết vị trí cất dấu ma túy trên bể nước và dưới gốc cây Sanh.

Ngày 23/02/2020, Trần Thị H đến nhà L, Đ chơi rồi nghỉ tại nhà L và Đ. Trưa ngày 24/02/2020, L chỉ nơi cất giấu ma túy cho H biết và nói với H: “Khi nào có người mua ma túy, chị nhắn tin thì em lấy hàng (ma túy) đưa ra cho anh chị để anh chị giao cho khách”, H đồng ý. Khoảng 14 giờ, ngày 24/02/2020, Đ và L đi xuống thị trấn G; đến khoảng 17 giờ 30 cùng ngày có người đàn ông tên Tâm gọi điện cho Đ đặt mua 60 viên ma túy hồng phiến, hai bên thống nhất giá bán 60 viên ma túy hồng phiến là 2.500.000 đồng. Sau đó, L nhắn tin cho H qua phần mềm Messenger Facebook, nhờ H lấy 60 viên ma túy hồng phiến đưa ra thị trấn G để bán cho khách, H đồng ý và lấy 60 viên ma túy (Methamphetamine), khối lượng 6,2 gam để trong hộp sắt trên bể nước nhà Đ, L, đưa ra thị trấn G để giao cho khách. Khi H đi đến khu vực xã D1, huyện D2, tỉnh Nghệ An thì bị tổ công tác Công an huyện D2, phát hiện bắt quả tang thu giữ tang vật.

Căn cứ vào Kết luận giám định số 318/KL-PC09 (Đ2-MT) ngày 02/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu viên nén màu hồng thu giữ của Trần Thị H, gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine). Số viên nén màu hồng (01 gói) thu giữ của Trần Thị H có tổng khối lượng là 6,2 g (sáu phẩy hai gam).

Căn cứ vào Kết luận giám định số 319/KL-PC09 (Đ2-MT) ngày 02/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Ba mẫu viên nén màu hồng (Ký hiệu M1, M2, M3) thu giữ khi khám xét chỗ ở của Nguyễn Thị L, gửi tới giám định đều là ma túy (Methamphetamine). Số viên nén màu hồng (03 gói) thu giữ khi khám xét chỗ ở của Nguyễn Thị L có tổng khối lượng là 44,15 g (bốn mươi bốn phẩy mười lăm gam).

Như vậy, Hoàng Tâm Đ và Nguyễn Thị L phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi mua bán 50,35 gam ma túy (Methamphetamine), vi phạm quy định tại điểm b khoản 3 điều 251 Bộ luật hình sự 2015; Trần Thị H phải chịu trách nhiệm hình sự về việc mua bán 6,2 gam ma túy (Methamphetamine), vi phạm quy định tại điểm i khoản 2 điều 251 Bộ luật hình sự 2015 như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất vụ án và vai trò của các bị cáo: Tội phạm do bị cáo Đ và L thực hiện thuộc loại đặc biệt nghiêm trọng, tội phạm do bị cáo H thực hiện thuộc loại rất nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về ma túy, nếu không được ngăn chặn kịp thời sẽ gây hậu quả lớn cho xã hội. Các bị cáo nhận thức rõ tác hại của ma túy cũng như các quy định của pháp luật về xử lý nghiêm đối với các hành vi phạm tội về ma túy nhưng do hám lợi nên các bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội, thể hiện ý thức xem thường pháp luật và bất chấp hậu quả xảy ra.

Đây là vụ án đồng phạm, giữa các bị cáo có sự bàn bạc về việc thực hiện hành vi phạm tội, tuy nhiên đồng phạm chỉ mang tính giản đơn. Trong đó, bị cáo Đ là người trực tiếp đi mua ma túy về cất dấu rồi bàn bạc với bị cáo L đưa đi bán để kiếm lời, đồng thời rủ rê, xúi dục bị cáo H là người dưới 18 tuổi đưa ma túy đi bán nên phải chịu trách nhiệm chính trong vụ án. Đối với bị cáo L là người giúp sức tích cực, chỉ chỗ cất giấu ma túy cho H biết và rủ rê, xúi dục bị cáo H là người dưới 18 tuổi đưa ma túy đi bán nên phải chịu trách nhiệm thứ hai. Đối với bị cáo H là người giúp sức, trực tiếp đưa ma túy đi bán, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo mới 16 tuổi 5 tháng 28 ngày (chưa đủ 18 tuổi) nên phải chịu trách nhiệm sau cùng trong vụ án.

[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo:

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo Đ và L có hành vi xúi dục người dưới 18 tuổi phạm tội nên cần áp dụng điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 để tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Đ và L như luận tội của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ. Theo Từ điển luật học: Xúi dục là hành vi kích động bằng lời nói, cử chỉ, vật chất hoặc bằng bất cứ thủ đoạn nào nhằm làm cho người khác thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật hoặc hành vi phạm tội. Xúi dục người chưa thành niên phạm tội là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong vụ án này Đ và L đã có trao đổi với H về việc đưa ma túy đi bán dẫn đến H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” lúc chưa đủ 18 tuổi. Do đó, bị cáo Đ và L phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội” nên không chấp nhận ý kiến của Luật sư bào chữa cho bị cáo Đ và Luật sư bào chữa cho bị cáo L.

Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đều thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra; tích cực hợp tác với cơ quan có thẩm quyền trong việc phát hiện và báo tin tội phạm. Vào cuối năm 2016, Đ đã cung cấp thông tin cho cán bộ phòng PC02 Công an tỉnh Nghệ An bắt giữ đối tượng trộm cắp xe máy theo Công văn số 262/CSHS ngày 20/5/2020 của phòng PC02 Công an tỉnh Nghệ An. Vào tháng 3 năm 2019, L đã cung cấp thông tin cho Đồn Biên phòng Cửa khẩu T về một đối tượng trong đường dây vận chuyển ma túy từ Lào vào Việt Nam giúp Đồn Biên phòng Cửa khẩu T phối hợp với phòng Cảnh sát điều tra tội phạm ma túy phá thành công chuyên án 368T theo giấy xác nhận số 14/GXN-ĐCKTT ngày 10/7/2020 của Đồn Biên phòng Cửa khẩu T. Vào ngày 02/01/2020, H đã báo tin cho Đồn Biên phòng D bắt giữ đối tượng buôn bán hàng cấm là pháo nổ theo giấy xác nhận ngày 20/7/2020 của Đồn Biên phòng D. Do đó, cần áp dụng các điểm s, t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo. Ngoài ra, bị cáo Đ sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã ra đầu thú, trước khi phạm tội Đ đã tích cực tham gia chữa cháy rừng vào ngày 15/6/2018 tại xóm Đức L, xã T, huyện Y được Ủy ban nhân dân xã T, huyện Y xác nhận theo công văn số 187/VP-UB ngày 10/7/2020; gia đình bị cáo được Nhà nước tặng Huy chương Kháng chiến Hạng Nhì, bố bị cáo được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến sỹ vẻ vang hạng Ba, Huân chương chiến sỹ giải phóng Hạng Nhất, mẹ bị cáo đã có thời gian tham gia dân công hỏa tuyến. Trước khi phạm tội, L có công trong việc cứu trẻ em đuối nước vào ngày 10/6/2019, được Ủy ban nhân dân xã T, huyện Y xác nhận theo công văn số 188/VP-UB ngày 10/7/2020; bị cáo có bố đẻ được Nhà nước tặng Huân chương Kháng chiến hạng Ba, mẹ đẻ được Nhà nước tặng Huân chương Kháng chiến Hạng Nhất. Do đó, cần áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo Đ và L.

Đối với bị cáo H, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo mới 16 tuổi 5 tháng 28 ngày, chưa đủ 18 tuổi. Đây là độ tuổi chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tâm sinh lý, trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống còn hạn chế; nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo một phần xuất phát từ điều kiện hoàn cảnh gia đình bị cáo bố mẹ ly hôn lúc bị cáo đang còn nhỏ, bị cáo về sống với bà ngoại, thiếu sự quan tâm, chăm sóc của bố mẹ nên dễ bị người khác xúi giục, lôi kéo. Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng nên cần xem xét áp dụng mức hình phạt hợp lý đối với người chưa thành niên phạm tội. Tại khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: “Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt ...tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định” Trong vụ án này, bị cáo Đ có vai trò chính, khối lượng ma túy bị cáo phải chịu trách nhiệm là 50,35 gam Methamphetamine, nhiều hơn khối lượng ma túy ở mức khởi điểm của khung hình phạt mà bị cáo bị truy tố là 20,35 gam Methamphetamine nên không thể áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 để xử phạt bị cáo Đ dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng. Do đó, không chấp nhận ý kiến của Luật sư bào chữa cho bị cáo Đ. Đối với bị cáo L và H có vai trò thứ yếu, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, giữa bị cáo L và Đ có quan hệ vợ chồng nên cần xem xét cho bị cáo L được hưởng chính sách nhân đạo của pháp luật; bị cáo H lúc phạm tội chưa đủ 18 tuổi nên cần áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 để xử phạt bị cáo L và H dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.

Nhân thân: Các bị cáo từ trước đến ngày phạm tội là công dân tốt, chưa có tiền án, tiền sự nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt.

Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, trên cơ sở cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra, kết hợp với việc xem xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo; cần áp dụng hình phạt tù và cách ly các bị cáo Đ và L ra khỏi xã hội một thời gian dài, cách ly bị cáo H ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục các bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp. Tuy nhiên về mức hình phạt Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc hợp lý.

[5] Hình phạt bổ sung: Các bị cáo Đ và L phạm tội chưa có thu lợi gì, hoàn cảnh gia đình các bị cáo rất khó khăn, các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, thu nhập thấp; Bị cáo H khi phạm tội là người dưới 18 tuổi nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[6] Vật chứng: Gồm 6,2 gam (hồng phiến) ma túy Methamphetamine thu giữ của H; 44,15 gam (hồng phiến) ma túy Methamphetamine; 4,7 gam (ma túy đá) Methamphetamine thu giữ khi khám xét chỗ ở của L là vật nhà nước độc quyền quản lý, cấm lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Vison, màu đỏ đã qua sử dụng, không có gương, số khung: DY-364182, số máy: F33E-0442019, biển kiểm soát:

37P1-150.47 kèm theo đăng ký mang tên Nguyễn Thị L bị Công an thu giữ khi bắt Trần Thị H. Đây là phương tiện các bị cáo dùng để thực hiện hành vi mua bán ma túy nên cần tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước; không chấp nhận ý kiến của Luật sư bào chữa cho bị cáo L là trả lại xe máy cho bị cáo L; 03 chiếc điện thoại thu giữ của các bị cáo là công cụ dùng để L lạc mua bán ma túy nên tịch thu, bán sung ngân sách nhà nước.

[7] Đối với người đàn ông có tên Nguyễn Văn A, trú tại xã Đ, huyện Y, tỉnh Nghệ An, theo lời khai của Hoàng Tâm Đ, A là người bán 03 gói ma túy (Methamphetamine) cho Đ. Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng Nguyễn Văn A, không có mặt tại địa phương, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ hành vi của A, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý.

Đối với người đàn ông tên Tâm, Cơ quan điều tra đã xác minh là Nguyễn Đức T, sinh năm 1985 trú tại: Xã D1, huyện D2, tỉnh Nghệ An. Tại cơ quan điều tra Tâm khai nhận, Tâm có quen biết Hoàng Tâm Đ, vào ngày 24/02/2020 Tâm không đặt mua 60 viên ma túy (hồng phiến) của Đ, Cơ quan điều tra đã triệu tập Hoàng Tâm Đ để đối chất nhưng Tâm không có mặt tại địa phương, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý..

Về gói ma túy đá (Methamphetamine) khối lượng 4,7 gam, thu giữ trên cành cây Sanh, phía sau nhà ở của Hoàng Tâm Đ và Nguyễn Thị L. Quá trình điều tra Đ và L khai nhận: không biết gói ma túy đó là của ai, vị trí thu giữ gói ma túy trên cành cây Sanh, nằm phía ngoài khu vực nhà ở của Đ và L. Vì vậy, chưa đủ căn cứ để buộc Đ và L phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi mua bán 4,7 gam ma túy (Methamphetamine). Tuy nhiên, đây là số ma túy đã tịch thu trong vụ án, không chứng minh được của ai nên cần tiêu hủy.

[8] Án phí: các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Hoàng Tâm Đ, Nguyễn Thị L, Trần Thị H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” 2. Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt: Bị cáo Hoàng Tâm Đ 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25.02.2020.

Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm o khoản 1 Điều 52; Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị L 10 (mười) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25.02.2020.

Áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251; khoản 1 Điều 101; điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt: Bị cáo Trần Thị H 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24.02.2020.

3. Vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Tịch thu tiêu hủy: 6,2 gam (hồng phiến) ma túy Methamphetamine (trừ khối lượng đã lấy để giám định 0,6 gam còn lại 5,6 gam (Methamphetamine) được đựng trong một phong bì thư niêm phong dán kín; 44,15 gam ma túy (hồng phiến) Methamphetamine ((trừ khối lượng đã lấy để giám định 1,7 gam còn lại 42,45 gam Methamphetamine); 4,7 gam (ma túy đá) Methamphetamine (trừ khối lượng đã lấy để giám định 0,5 gam còn lại 4,2 gam Methamphetamine) được đựng trong phong bì thư niêm phong dán kín.

Tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước: 01 xe máy nhãn hiệu Honda Vison màu đỏ đã qua sử dụng, không có gương, số khung: DY-364182, số máy: F33E-0442019, biển kiểm soát: 37P1-150.47 kèm theo đăng ký mang tên Nguyễn Thị L; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đỏ đã qua sử dụng của Nguyễn Thị L; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s màu hồng đã qua sử dụng của Trần Thị H; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung màu đen đã qua sử dụng của Hoàng Tâm Đ.

Đặc điểm, tình trạng các vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/6/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Nghệ An và Cục thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An. Những vật chứng trên đang được bảo quản tại kho tang vật của Cục thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An.

4. Án phí: Buộc các bị cáo Hoàng Tâm Đ, Nguyễn Thị L, Trần Thị H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong han 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm , các bị cáo và người đại diện hợp pháp, người bào chữa cho bị cáo H có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân c ấp cao tại Hà Nội.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 93/2020/HS-ST ngày 24/07/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:93/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về