Bản án 93/2020/HS-ST ngày 06/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 93/2020/HS-ST NGÀY 06/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 8 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 86/2020/HSST ngày 26 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 97/2020/QĐXXST- HS ngày 24/7/2020, đối với các bị cáo:

1. Bùi Anh T, sinh ngày 18/12/1988; giới tính: Nam; nơi cư trú: Thôn Đ, xã N, huyện H, tỉnh Thái Bình; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn (văn hóa): 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do. Con ông Bùi Văn S và con bà Mai Thị K; có vợ là Bùi Thị T; có 01 con. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Từ tháng 10/2007 đến tháng 12/2008 tham gia nghĩa vụ quân sự, sau đó xuất ngũ về địa phương lao động tự do. - Quyết định số 20/QĐ/XPVPHC ngày 02/02/2010 của Công an huyện H, tỉnh Thái Bình xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, hình thức phạt cảnh cáo. - Quyết định số 135/QĐ/XPVPHC ngày 10/5/2010 của Công an huyện H, tỉnh Thái Bình xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, hình thức phạt cảnh cáo. - Quyết định số 15/QĐ/XPVPHC 1 ngày 24/5/2010 của Phòng PC17 – Công an tỉnh Thái Bình xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, hình thức phạt cảnh cáo. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/3/2020 đến ngày 28/3/2020 chuyển tạm giam cho đến nay, bị cáo bị trích xuất, có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn S, sinh ngày 20/5/1986; giới tính: Nam; nơi cư trú: Thôn Đ, xã N, huyện H, tỉnh Thái Bình; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn (văn hóa): 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Nguyễn G (ông G được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhì) và con bà Bùi Thị T; bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Từ tháng 02 năm 2005 đến tháng 9 năm 2006 tham gia nghĩa vụ quân sự. - Quyết định số 4355/QĐ-CT ngày 10/10/2008 của Ủy ban nhân dân huyện H, tỉnh Thái Bình áp dụng biện pháp đưa vào Trung tâm chữa bệnh giáo dục - lao động - xã hội thành phố T, lý do nghiện ma túy, thời hạn 12 tháng, chấp hành xong ngày 10/10/2009. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/3/2020 đến ngày 28/3/2020 chuyển tạm giam cho đến nay, bị cáo bị trích xuất, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Đỗ Văn Q (vắng mặt) Nơi cư trú: Đ, xã N, huyện H, tỉnh Thái Bình.

- Người chứng kiến:

1. Anh Dương Ngọc H, sinh năm 1985 (vắng mặt) Nơi cư trú: Tổ 02, phường B, thành phố T, tỉnh Thái Bình.

2. Ông Lê Xuân T, sinh năm 1962 (vắng mặt) Nơi cư trú: Tổ 15, phường P, thành phố T, tỉnh Thái Bình.

3. Bà Đỗ Thị Đ sinh năm 1971 (vắng mặt) Nơi cư trú: Đ, xã N, huyện H, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 25/3/2020, bị cáo Bùi Anh T đến nhà bị cáo Nguyễn S để rủ bị cáo S đi mua ma túy về cùng sử dụng. Khi gặp bị cáo S, bị cáo T nói “Em có 300.000 đồng, anh em mình đi mua ma túy đá về cùng sử dụng”, bị cáo S đồng ý. Sau đó bị cáo S đến nhà anh Đỗ Văn Q mượn xe ô tô nhãn hiệu Hyundai Getz, màu xanh, biển số đăng ký 89A-016.76 chở bị cáo T đến khu vực bờ hồ thị trấn N, huyện K, tỉnh Thái Bình. Đến nơi, bị cáo T xuống xe đi bộ gặp và mua của một người nam giới khoảng 50 tuổi không biết tên, địa chỉ 300.000 đồng được 01 túi ma túy. Bị cáo T cất giấu túi ma túy vào túi quần bên trái rồi ra chỗ bị cáo S đang chờ. Khi lên xe ô tô, bị cáo T rủ bị cáo S lên thành phố T chơi, bị cáo S đồng ý điều khiển xe chở bị cáo T lên thành phố T. Khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, khi 2 bị cáo đi đến khu vực đường L, tổ 03, phường L, thành phố T thì bị tổ công tác 141- Công an tỉnh Thái Bình kết hợp với Công an thành phố T, tỉnh Thái Bình thấy có dấu hiệu nghi ngờ đã yêu kiểm tra. Khi tổ công tác kiểm tra trước sự chứng kiến của anh Dương Ngọc H và ông Lê Xuân T bị cáo T xuống xe tự giác giao nộp cho tổ công tác 01 túi nilon trong suốt bên trong có chứa chất dạng tinh thể trong suốt là ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng 0,3198 gam. Kiểm tra người bị cáo T thu tại túi quần bên phải số tiền 340.000 đồng. Kiểm tra người bị cáo S thu tại túi quần bên trái 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng, 01 điện thoại di động NOKIA 101 màu đen; thu tại túi quần hậu bên phải 01 ví giả da màu nâu bên trong có 01 chứng minh nhân dân, 02 giấp phép lái xe ô tô đều mang tên Nguyễn S và số tiền 4.000.000 đồng. Kiểm tra chiếc xe ô tô do bị cáo S điều khiển không phát hiện, thu giữ gì. Sau đó tổ công tác đã đưa hai bị cáo và mời những người chứng kiến về trụ sở Công an phường L, thành phố T, tỉnh Thái Bình lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và tiến hành các thủ tục theo quy định của pháp luật, sau đó chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 25/3/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của bị cáo Bùi Anh T và bị cáo Nguyễn S phát hiện và thu trên nóc tủ trong phòng ngủ của bị cáo Nguyễn S 01 bình thủy tinh trong suốt; khám xét tại nhà bị cáo Bùi Anh T không phát hiện thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Tại bản kết luận giám định số 109/KLGĐ - PC09 ngày 26/3/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Chất bột màu trắng dạng cục trong phong bì niêm phong ghi “Vật chứng thu giữ của Bùi Anh T, sinh năm 1988, đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Đ, xã N, huyện H, tỉnh Thái Bình ngày 25/3/2020 là ma túy, loại Methamphetaminhe, có khối lượng 0,3198 gam (Không phẩy ba nghìn một trăm chín mươi tám gam).

Cáo trạng số 88/CT-VKSTPTB ngày 25/6/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình truy tố các bị cáo Bùi Anh T và Nguyễn S về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Tại phiên toà, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thái Bình giữ nguyên truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử :

Tuyên bố: Các bị cáo Bùi Anh T và Nguyễn S phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51: điều 17; điều 50; điều 58; điều 38 Bộ luật Hình sự.

1.1. Xử phạt bị cáo Bùi Anh T từ 18 đến 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/3/2020.

1.2. Xử phạt bị cáo Nguyễn S từ 15 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/3/2020.

2. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật Hình sự; căn cứ điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

3.1. Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu của các bị cáo còn lại sau giám định.

3.2. Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc nỏ thủy tinh trong suốt thu giữ của bị cáo Nguyễn Sỹ.

3.3. Trả lại bị cáo Bùi Anh T số tiền 340.000 đồng nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

3.4. Trả lại bị cáo Nguyễn S 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 101 màu đen, 01 ví giả da màu nâu nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

3.5. Trả lại bị cáo Nguyễn S 01 chứng minh nhân dân, 02 giấy phép lái xe đều mang tên Nguyễn S.

4. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

5. Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định.

Các bị cáo đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình đã truy tố. Các bị cáo không tranh luận gì.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử cho các bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất để sớm được trở về với gia đình và xã hội, phấn đấu trở thành công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình và của Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình và của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục, đúng thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên toà, các bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra. Lời khai nhận tội của các bị cáo là chứng cứ để kết tội lẫn nhau và được chứng minh bởi các chứng cứ khác như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an thành phố T lập hồi 21 giờ 45 phút ngày 25/3/2020 tại trụ sở Công an phường L, thành phố T (bút lục số 15 đến 18); biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Công an thành phố T lập hồi 22 giờ 55 phút ngày 25/3/2020 tại trụ sở Công an phường L, thành phố T (bút lục số 19); biên bản khám xét do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T lập hồi 22 giờ và 23 giờ 10 phút ngày 25/3/2020 tại chỗ ở của bị cáo Bùi Anh T và bị cáo Nguyễn S (bút lục số 25 đến 28); bản kết luận giám định số 109/KLGĐ- PC09 ngày 26/3/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình (bút lục số 35); lời khai của người chứng kiến là anh Dương Ngọc H, ông Lê Xuân T và bà Đỗ Thị Đ (bút lục số 145 đến 154; 163 đến 164); lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Đỗ Văn Q (bút lục số 161 đến 162). Cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Xét thấy lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến, phù hợp với các chứng cứ khác về thời gian, địa điểm, hành vi phạm tội. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 25/3/2020, tại đường L, tổ 03, phường L, thành phố T, tỉnh Thái Bình, tổ công tác 141 phát hiện, bắt quả tang các bị cáo Bùi Anh T và Nguyễn S đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,3198gam Methamphetamine mục đích để cùng nhau sử dụng. Vì vậy, các bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Điều 249 Bộ luật Hình sự, tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định: “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. a) …c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;…5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

[3] Xét tính chất mức độ hậu quả của hành vi phạm tội của các bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước ta, đi ngược lại cuộc đấu tranh quyết liệt của Nhà nước và nhân dân ta, nhằm đẩy lùi và loại trừ tội phạm ma tuý ra khỏi đời sống xã hội. Ma tuý đã gây ra những tác hại khôn lường cho sức khoẻ, trí tuệ, nhân cách và nòi giống con người, ma tuý còn gây ra biết bao hiểm hoạ nghiêm trọng khác cho xã hội, là nguồn gốc phát sinh hàng loạt các loại tội phạm, là tác nhân lan truyền đại dịch thế kỷ HIV-AIDS, là yếu tố phá vỡ hạnh phúc biết bao gia đình có người nghiện…Tội phạm mà các bị cáo đã thực hiện là tội phạm nghiêm trọng, vì vậy, Hội đồng xét xử phạt các bị cáo mức án tương xứng với hành vi, phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo.

Bị cáo Bùi Anh T là người khởi xướng, rủ rê bị cáo Nguyễn S, bị cáo T bỏ tiền, trực tiếp mua ma túy nên bị cáo giữ vai trò thứ nhất trong vụ án; bị cáo Nguyễn S sau khi tiếp nhận ý chí của bị cáo T đã mượn xe ô tô của anh Q để chở bị cáo T đi mua ma túy, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội một cách tích cực, bị cáo giữ vai trò thứ hai trong vụ án. Với việc đánh giá vai trò của các bị cáo như trên, các bị cáo phải chịu mức hình phạt tương xứng và cần thiết phải áp dụng hình phạt tù giam, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục các bị cáo và góp phần đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Do các bị cáo có việc làm và thu nhập không ổn định, tàng trữ ma túy để sử dụng với khối lượng ít nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[4] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo thì thấy: Các bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 điều 52 Bộ luật Hình sự. Các bị cáo đều có nhân thân xấu, bị cáo Bùi Anh T có nhân thân xấu hơn bị cáo Nguyễn S nên bị cáo T phải chịu mức hình phạt cao hơn bị cáo S. Trong quá trình điều tra vụ án và tại phiên toà, các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, các bị cáo đều có thời gian tham gia Quân đội nhân dân Việt Nam, bố đẻ bị cáo S được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhì nên các bị cáo đều được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về nguồn gốc số ma tuý: Bị cáo Bùi Anh T khai mua của một người nam giới khoảng 50 tuổi, không biết tên và địa chỉ tại khu vực bờ hồ thị trấn N, huyện K, tỉnh Thái Bình nên cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[6] Về vật chứng vụ án:

[6.1] Số ma tuý thu giữ của bị cáo T được hoàn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự và căn cứ vào điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

[6.2] Đối với 01 chiếc nỏ thủy tinh trong suốt thu giữ của bị cáo Nguyễn S dùng để sử dụng ma túy đá nên áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự và căn cứ vào điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

[6.3] Đối với 01 chiếc chiếc ô tô nhãn hiệu Hyundai - Getz, màu xanh, biển số đăng ký 89A - 016.76, quản lý của bị cáo Nguyễn S, quá trình điều tra Cơ quan điều tra xác định là tài sản hợp pháp của anh Đỗ Văn Q. Khi mượn xe của anh Q, bị cáo S không nói cho anh Q biết đi đâu, làm gì, vì biết bị cáo S có giấy phép lái xe ô tô nên anh Q đã cho bị cáo S mượn xe. Vì vậy không có đủ căn cứ để xử lý đối với anh Q. Ngày 15/4/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra điều tra Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đã ra quyết định trả lại cho anh Q chiếc xe trên là phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận.

[6.4] Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 101 màu đen, 01 ví giả da màu nâu thu giữ của bị cáo S; số tiền 340.000 đồng thu giữ của bị cáo T. Xét thấy những tài sản này không liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo nên áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự và căn cứ vào điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần trả lại cho bị cáo S và bị cáo T nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án đối với 2 bị cáo.

[6.5] Đối với số tiền 4.000.000 đồng thu giữ của bị cáo Nguyễn S là của ông Nguyễn G (bố đẻ của bị cáo S), không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo S nên ngày 09/6/2020 Cơ quan điều tra đã trả lại ông G là phù hợp quy định của pháp luật nên chấp nhận.

[6.6] Đối với 01 chứng minh nhân dân và 02 giấy phép lái xe đều mang tên Nguyễn S thu giữ của bị cáo Nguyễn S, xét thấy đây là những giấy tờ tùy thân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự và và căn cứ vào điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần trả lại cho bị cáo Nguyễn S.

[7] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51; điều 17; điều 50; điều 58; điều 38; điều 47 Bộ luật Hình sự; căn cứ vào điều 106: điều 135; điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điều 21; điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Bùi Anh T và Nguyễn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

2.1. Xử phạt bị cáo Bùi Anh T 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/3/2020.

2.2. Xử phạt bị cáo Nguyễn S 01 (một) năm 01 (một) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/3/2020.

3. Về xử lý vật chứng:

3.1. Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu của các bị cáo còn lại sau giám định.

3.2. Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc nỏ thủy tinh trong suốt thu giữ của bị cáo Nguyễn Sỹ.

3.3. Trả lại bị cáo Bùi Anh T số tiền 340.000 đồng nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

3.4. Trả lại bị cáo Nguyễn S 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 101 màu đen, 01 ví giả da màu nâu nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

3.5. Trả lại bị cáo Nguyễn S 01 chứng minh nhân dân, 02 giấy phép lái xe đều mang tên Nguyễn S.

(Vật chứng nêu trên Cơ quan điều tra đã chuyển sang Chi cục thi hành án dân sự thành phố T ngày 26/6/2020).

4. Về án phí: Các bị cáo Bùi Anh T và Nguyễn S mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 7, 7a, 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 06/8/2020. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Đỗ Văn Q có quyền kháng cáo trong thời han 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 93/2020/HS-ST ngày 06/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:93/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về