Bản án 93/2020/HNGĐ-ST ngày 28/04/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 93/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/04/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 4 năm 2020 tại Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 111/2020/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 02 năm 2020, về việc Ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 3 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 68/2020/QĐST-HNGĐ ngày 25 tháng 3 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Minh V – sinh năm 1989. Địa chỉ: Ấp 1, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau; có mặt.

- Bị đơn: Chị Ngô Hồng H – sinh năm 1992. Địa chỉ: Ấp 1, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 12 tháng 02 năm 2020, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Nguyễn Minh V trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị H sống chung năm 2006, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức hôn lễ, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân xã Trần Hợi. Hiện tại vợ chồng anh đã ly thân nhau. Xét thấy cuộc sống chung không còn tình cảm, mục đích hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn thường xuyên xảy ra và không hàn gắn được nên anh yêu cầu ly hôn với chị H.

Về con chung: Có một người con chung, cháu Nguyễn Khánh D – sinh ngày 14/12/2016, cháu hiện đang sống cùng với anh. Anh cầu trực tiếp nuôi con cháu D và không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Anh xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, anh V vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của mình.

Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho bị đơn là chị Ngô Hồng H đúng theo quy định pháp luật nhưng chị H không có văn bản thể hiện ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn và cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến trình bày của đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Bị đơn chị H có nơi trú tại ấp 1, xã Trần Hợi, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Anh V khởi kiện yêu cầu ly hôn đối với chị H, yêu cầu chị Tiếp trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Do đó, quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án được xác định là "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con" theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Anh V là người khởi kiện, chị H là người bị kiện nên xác định tư cách đương sự anh V là nguyên đơn, chị H là bị đơn theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 68 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Chị H đã được tòa án triệu tập hợp lệ những vẫn vắng mặt không có lý do, căn cứ theo Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt chị H theo quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh chị tự nguyện xác lập quan hệ hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Trần Hợi, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau vào ngày 30/12/2015 đúng theo quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa anh V và chị H được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp.

Xét nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do bất đồng quan điểm, thường xuyên cự cãi, gia đình hai bên có hàn gắn nhưng không thành, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Anh V xác định không còn tình cảm vợ chồng với chị H và thể hiện sự quyết tâm mong muốn được ly hôn. Tại phiên tòa, anh V xác định, nếu cho các bên tiếp tục chung sống sẽ không mang lại hạnh phúc, do đó Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu của anh V được ly hôn với chị H.

[3] Về con chung: Anh chị có một người con chung cháu Nguyễn Khánh D, sinh ngày 14/12/2016, cháu hiện đang sống cùng với anh V, anh yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng cháu D. Do cháu D vẫn chưa đủ tuổi để ghi nhận nguyện vọng của cháu theo quy định của pháp luật nên cần căn cứ vào điều kiện cụ thể của các bên để quyết định người trực tiếp nuôi dưỡng cháu D. Xét thấy, chị H không trực tiếp nuôi dưỡng con chung, từ khi sinh ra cho đến nay cháu D là do anh V trực tiếp nuôi dưỡng, chị H không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của anh V. Để đảm bảo cuộc sống ổn định vốn có của cháu D, hạn chế sự ảnh hưởng đến môi trường sống của cháu, cần giữ sự ổn định trong cuộc sống vốn có bây lâu nay của cháu. Tòa án đã tống đạt văn bản tố tụng hợp lệ cho chị H nhưng chị vẫn vắng mặt không tham dự hòa giải và xét xử tại tòa cũng như không gửi ý kiến trình bày đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đo đó, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu D cho anh V trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với kiện cụ thể các bên và đúng với quy định của pháp luật.

[4] Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con: Anh V không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con. Xét đây là ý chí tự nguyện của anh V nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Anh V xác định không có, không yêu cầu tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc anh V phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình. Chị H không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 và khoản 3 Điều 68, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 9, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Nguyễn Minh V và chị Ngô Hồng H.

2. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Khánh D – sinh ngày 14/12/2016 cho anh Nguyễn Minh V trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Ngô Hồng H không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở. Chị Ngô Hồng H không phải cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí: Anh Nguyễn Minh V phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình, anh có nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0003252 ngày 12 tháng 02 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau được chuyển thu, anh Nguyễn Minh V không phải nộp tiếp.

Anh Nguyễn Minh V được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, chị Ngô Hồng H được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 93/2020/HNGĐ-ST ngày 28/04/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:93/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về