TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒA THÀNH, TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 93/2019/HS-ST NGÀY 25/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 25 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 91/2019/TLST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 100/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Trần Đồng T, sinh năm 1989, tại Tây Ninh; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi cư trú hiện nay: Ấp C, xã T, huyện H, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Không có; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Hữu H và bà Tống Thị C; có vợ là Nguyễn Thị Ngọc T, sinh năm 1989 và 01 người con sinh năm 2016; tiền án: Không có; tiền sự: Ngày 17/5/2019, bị Công an xã T, huyện H, tỉnh Tây Ninh xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.000.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy theo Quyết định số 47/QĐ-XPVPHC; bị cáo bị tạm giữ ngày 26/6/2019, chuyển sang tạm giam từ ngày 05/7/2019 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. Họ và tên: Trần Quốc P, sinh năm 1999, tại Tây Ninh; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Ấp C, xã T, huyện H, tỉnh Tây Ninh; nơi cư trú hiện nay: Ấp B, xã N, huyện H, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Không có; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn C và bà Mang Ngọc L; bị cáo chưa có vợ con; tiền án: Không có; tiền sự: Không có; bị cáo bị tạm giữ ngày 26/6/2019, chuyển sang tạm giam từ ngày 05/7/2019 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
3. Họ và tên: Thân Thị Bích T1, sinh năm 1999, tại Tây Ninh; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Ấp K, xã T, huyện H, tỉnh Tây Ninh; nơi cư trú hiện nay: Ấp B, xã N, huyện H, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Không có; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Thân Thanh N và bà Lê Thị T (đã chết); chồng: Chưa có; có 01 người con sinh năm 2016; tiền án: Không có; tiền sự: Không có; bị cáo bị tạm giữ ngày 26/6/2019, chuyển sang tạm giam từ ngày 05/7/2019 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trần Đồng T, Trần Quốc P và Thân Thị Bích T1 là các đối tượng nghiện ma túy, quen biết liên hệ với nhau trong việc mua ma túy đem về phân nhỏ bán lại cho người khác để có tiền tiêu xài và có ma túy sử dụng. Sáng ngày 22/6/2019, T đi xe buýt đến gần bùng binh Gò Dầu thuộc thị trấn Gò Dầu, huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh, gặp người tên T2 không rõ lý lịch mua 02 bịch ma túy với giá 12.000.000 đồng. Chiều cùng ngày, T phân nhỏ ra bán cho P và T1 (chung sống với nhau như vợ chồng) 01 bịch ma túy với giá 1.500.000 đồng tại nhà của T thuộc ấp C, xã T, huyện H, tỉnh Tây Ninh.
Sau khi mua ma túy, P và T1 đem về phân ra nhiều bịch nhỏ để bán cho những người nghiện gồm:
- Ngày 24/6/2019, tại quán cà phê “Thanh Hương” thuộc ấp B, xã N, huyện H, tỉnh Tây Ninh, P bán cho Hà Văn V, sinh năm 1985, ngụ ấp K, xã N, huyện H, tỉnh Tây Ninh 01 bịch ma túy giá 100.000 đồng.
- Ngày 25/6/2019, tại quán cà phê “Thanh Hương”, P bán cho Nguyễn Thành T3, sinh năm 1999, ngụ khu phố Đ, phường T, thành phố N, tỉnh Tây Ninh và Đỗ Ngọc Thùy T4, sinh năm 1993, ngụ khu phố 7, phường 11, quận V, Thành phố Hồ Chí Minh 01 bịch ma túy giá 300.000 đồng (T3 và T4 hùn tiền mua ma túy).
- Khoảng 14 giờ ngày 26/6/2019, tại quán cà phê “Thanh Hương”, T1 xin 02 bịch ma túy của Trần Quốc A (là anh ruột của P), sinh năm 1993, ngụ ấp C, xã T, huyện H, tỉnh Tây Ninh rồi bán cho V 01 bịch giá 200.000 đồng và bán cho T3 với T4 01 bịch giá 300.000 đồng.
- Lúc 17 giờ 10 phút ngày 26/6/2019, tại quán cà phê “Thanh Hương”, khi P đang bán cho T3 và T4 01 bịch ma túy giá 200.000 đồng và bán cho V 01 bịch ma túy giá 200.000 đồng thì bị Công an huyện Hòa Thành bắt quả tang và thu giữ trong người của T3 01 bịch nylon chứa chất tinh thể màu trắng được niêm phong (kí hiệu M1), thu trong người của V 01 bịch nylon chứa chất tinh thể màu trắng được niêm phong (kí hiệu M3), thu trong người của T4 01 bịch nylon chứa chất tinh thể màu trắng được niêm phong (kí hiệu M2) do T3 và T4 mua của T1 lúc 14 giờ cùng ngày chưa sử dụng hết.
Khám xét chỗ ở của P thu giữ: 02 bịch nylon chứa chất tinh thể màu trắng được niêm phong (kí hiệu M4); 02 đoạn ống hút nhựa màu trắng cắt xéo một đầu; 01 điện thoại di động VIVO màu xanh; 08 vỏ bịch nylon màu trắng bóp dính miệng; tiền Việt Nam 400.000 đồng; 01 bình nhựa có gắn ống hút nhựa và ống thủy tinh; 01 kéo kim loại màu trắng; 01 quẹt gas màu trắng; 01 cân điện tử tiểu ly ghi chữ MI/O.
Khám xét chỗ ở của T thu giữ: 02 bịch nylon chứa chất tinh thể màu trắng được niêm phong (kí hiệu M5); 01 bóp da màu đen; 01 kéo kim loại màu trắng; 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng cắt xéo một đầu.
Tại Kết luận giám định số 947/KL-KTHS ngày 29/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận:
- Mẫu tinh thể màu trắng bên trong 01 bịch nylon hàn kín (kí hiệu M1) gửi đến giám định là chất ma túy; Là loại Methamphetamine; Khối lượng 0,0391 gam.
- Mẫu tinh thể màu trắng bên trong 01 bịch nylon hàn kín (kí hiệu M2) gửi đến giám định là chất ma túy; Là loại Methamphetamine; Khối lượng 0,0539 gam.
- Mẫu tinh thể màu trắng bên trong 01 bịch nylon hàn kín (kí hiệu M3) gửi đến giám định là chất ma túy; Là loại Methamphetamine; Khối lượng 0,0543 gam.
- Mẫu tinh thể màu trắng bên trong 02 bịch nylon hàn kín (kí hiệu M4) gửi đến giám định là chất ma túy; Là loại Methamphetamine; Khối lượng 0,7878 gam.
- Mẫu tinh thể màu trắng bên trong 02 bịch nylon hàn kín (kí hiệu M5) gửi đến giám định là chất ma túy; Là loại Methamphetamine; Khối lượng 28,1537 gam.
Qua kết quả xác minh thể hiện các bị cáo không có tài sản nên Cơ quan điều tra không tiến hành kê biên.
Đối với hành vi của Trần Quốc A cho T1 ma túy mà không biết T1 bán cho người nghiện và do trọng lượng ma túy thu giữ chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan điều tra xử lý hành chính là có căn cứ.
Đối với hành vi mua ma túy để sử dụng của Hà Văn V, Nguyễn Thành T3, Đỗ Ngọc Thùy T4, do trọng lượng ma túy thu giữ chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan Cảnh sát điều tra xử lý hành chính là có căn cứ.
Riêng người tên T2 bán ma túy cho T, hiện chưa xác định được, khi nào làm rõ xử lý sau.
Tại Cáo trạng số: 89/CT-VKSHT ngày 30 tháng 10 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh đã truy tố bị cáo Trần Đồng T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; các bị cáo Trần Quốc P và Thân Thị Bích T1 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh trong phần tranh luận đã giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo Trần Đồng T, Trần Quốc P và Thân Thị Bích T1 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo như cáo trạng đã truy tố, riêng đối với bị cáo T thì áp dụng thêm điểm c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng điểm c, i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Đồng T mức án từ 13 năm tù đến 14 năm tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
- Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Quốc P mức án từ 08 năm tù đến 09 năm tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
- Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Thân Thị Bích T1 mức án từ 07 năm tù đến 08 năm tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự xử lý vật chứng theo quy định.
Lời nói sau cùng của các bị cáo tại phiên tòa:
- Bị cáo T: Trong thời gian tạm giam, bị cáo rất ăn năn hối hận về hành vi của mình, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về đoàn tụ với gia đình.
- Bị cáo P: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về đoàn tụ với gia đình.
- Bị cáo T1: Bị cáo vô cùng ăn năn về việc làm sai phạm của mình, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình và chăm lo cho con của bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hòa Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa sơ thẩm, các bị cáo Trần Đồng T, Trần Quốc P và Thân Thị Bích T1 đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Xét lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, kết luận giám định, lời khai của người làm chứng, tang vật vụ án cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ xác định:
Ngày 22/6/2019, tại nhà của bị cáo T thuộc ấp C, xã T, huyện H, tỉnh Tây Ninh, bị cáo T có hành vi bán trái phép chất ma túy cho bị cáo P và bị cáo T1 01 bịch với giá 1.500.000 đồng. Qua khám xét chỗ ở của bị cáo T thu giữ của bị cáo 02 bịch nylon chứa chất tinh thể màu trắng, qua giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, tổng khối lượng ma túy thu giữ của bị cáo T là 29,0349 gam.
Từ ngày 24/6/2019 đến ngày 26/6/2019, tại quán cà phê “Thanh Hương” thuộc ấp B, xã N, huyện H, tỉnh Tây Ninh, bị cáo P và bị cáo T1 có hành vi mua bán trái phép chất ma túy cho nhiều người và nhiều lần, cụ thể: Bán cho Hà Văn V 01 lần vào ngày 24/6/2019 và 01 lần vào ngày 26/6/2019; bán cho Nguyễn Thành T3 với Đỗ Ngọc Thùy T4 01 lần vào ngày 25/6/2019 và 01 lần vào ngày 26/6/2019, thu giữ tổng khối lượng ma túy là 0,8812 gam, loại Methamphetamine. Ngoài ra, ngày 26/6/2019, bị cáo T1 còn có hành vi bán trái phép chất ma túy cho V 01 lần và bán cho T3 với T4 01 lần 0,0539 gam, loại Methamphetamine.
Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Bị cáo P và bị cáo T1 có hành vi mua bán trái phép chất ma túy cho nhiều người, nhiều lần nên Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Thành truy tố bị cáo P và bị cáo T1 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với các tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Phạm tội 02 lần trở lên” và “Đối với 02 người trở lên” theo điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
Bị cáo T có hành vi bán trái phép chất ma túy và tổng khối lượng ma túy thu giữ của bị cáo T là 29,0349 gam nên Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Thành truy tố bị cáo T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự là “…Methamphetamine … có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam” theo điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Ngoài ra, bị cáo T có hành vi bán trái phép chất ma túy cùng lúc cho bị cáo P và bị cáo T1, đây là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “Đối với 02 người trở lên” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự nhưng tại Cáo trạng số: 89/CT-VKSHT ngày 30/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Thành không có truy tố bị cáo T theo tình tiết định khung tại điểm c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Trong phần tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm tình tiết định khung “Đối với 02 người trở lên” theo điểm c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo T. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án đã đưa ra xét xử bị cáo T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c, i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự nên tại phiên tòa, Hội đồng xét xử T hành xét xử bị cáo T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c, i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự là không vượt quá giới hạn của việc xét xử quy định tại khoản 1 Điều 298 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình chính trị tại địa phương. Các bị cáo vẫn biết ma túy là hiểm họa của con người, cộng đồng và xã hội, việc sử dụng chất ma túy là nguy hiểm đến sức khỏe con người và là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác. Các bị cáo ý thức được hành vi mua bán chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích tư lợi đã dẫn các bị cáo vào con đường phạm tội. Vì vậy, cần phải có một mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.
[4] Khi quyết định hình phạt có xem xét các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng đối với các bị cáo:
Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng bị cáo T có nhân thân xấu.
Trong vụ án này, khối lượng ma túy thu giữ của bị cáo T là 29,0349 gam thuộc tình tiết định khung cao nên bị cáo T phải chịu trách nhiệm cao hơn các bị cáo khác.
Bị cáo P và bị cáo T1 cố ý cùng thực hiện một tội phạm là mua bán trái phép chất ma túy cho người khác nhưng bị cáo P là người trực tiếp thực hiện tội phạm nên bị cáo P sẽ phải chịu trách nhiệm cao hơn bị cáo T1, bị cáo T1 có vai trò là đồng phạm giản đơn với bị cáo P nên phải chịu trách nhiệm tương ứng với hành vi và vai trò đồng phạm.
Do đó, mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Thành đề nghị là có căn cứ để Hội đồng xét xử xem xét.
[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, các bị cáo đều là người nghiện ma túy, sống chung với gia đình, không có tài sản riêng nên miễn hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng:
- Vật chứng thu giữ là chất ma túy và các dụng cụ sử dụng ma túy cần tịch thu tiêu hủy.
- Tiền Việt Nam 400.000 đồng là tiền bị cáo P bán trái phép chất ma túy có được và 01 điện thoại di động VIVO màu xanh của bị cáo P sử dụng để liên lạc trong việc mua bán trái phép chất ma túy nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.
[7] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố các bị cáo Trần Đồng T, Trần Quốc P, Thân Thị Bích T1 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm c, i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Trần Đồng T 13 (Mười ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 26/6/2019.
- Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Trần Quốc P 08 (Tám) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 26/6/2019.
Xử phạt bị cáo Thân Thị Bích T1 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 26/6/2019.
2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy: 02 (hai) gói niêm phong đề vụ số: 947/KL-KLHS gói 4 và 947/KL-KLHS gói 5, có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh và chữ ký của giám định viên Nguyễn Văn N cùng trợ lý giám định Nguyễn Thị Thùy D; 01 (một) bình nhựa có gắn ống hút nhựa và ống thủy tinh, đã qua sử dụng; 08 (tám) vỏ bịch nylon màu trắng bóp dính miệng; 01 (một) cân điện tử tiểu ly ghi chữ MI/O, đã qua sử dụng; 02 (hai) kéo kim loại màu trắng, đã qua sử dụng; 01 (một) quẹt gas màu trắng, đã qua sử dụng; 01 (một) bóp da màu đen, đã qua sử dụng; 03 (ba) đoạn ống hút nhựa màu trắng cắt xéo một đầu, đã qua sử dụng.
- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: Tiền Việt Nam 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng); 01 (một) điện thoại di động VIVO màu xanh, không kiểm tra số IMEI, đã qua sử dụng.
3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo Trần Đồng T, Trần Quốc P, Thân Thị Bích T1, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).
Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh để xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 93/2019/HS-ST ngày 25/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy tỉnh Tây Ninh
Số hiệu: | 93/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Hoà Thành - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về