Bản án 93/2018/HNGĐ-ST ngày 30/07/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 93/2018/HNGĐ-ST NGÀY 30/07/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 30 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 467/2018/TLST- HNGĐ ngày 26 tháng 6 năm 2018 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 98/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 7 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hồ Thị Mỹ T, sinh năm 1993.

Hộ khẩu thường trú: Số 363/12/6, Khu A, Tổ 3, Ấp 5, xã AP, huyện LT, tỉnh Đồng Nai.

Nơi cư trú: Số 62/16, Tổ 5, Khu B, Ấp 5, xã AP, huyện LT, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Anh Lê Trung K, sinh năm 1992.

Hộ khẩu thường trú: Số 363/12/6, Khu A, Tổ 3, Ấp 5, xã AP, huyện LT, tỉnh Đồng Nai. (Nguyên đơn, bị đơn có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo đơn khởi kiện ngày 13 tháng 6 năm 2018, các lời khai tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Hồ Thị Mỹ T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh Lê Trung K đăng ký kết hôn tự nguyện năm 2012 tại Ủy ban nhân dân xã AP, huyện LT.

Sau thời gian chung sống, đến năm 2015 anh K và chị T phát sinh mâu thuẫn.

Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh K ăn chơi, không lo làm ăn, không có trách nhiệm với gia đình, không mang tiền về cho chị T lo cho con cái. Anh, chị đã ly thân từ năm 2016 cả hai không còn quan tâm chăm sóc nhau vì vậy mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Về mâu thuẫn quan hệ hôn nhân của chị và anh K, cha mẹ hai bên gia đình đã nói chuyện với nhau để hòa giải quan hệ hôn nhân của anh, chị nhưng không được. Hiện nay chị T cùng cháu Lê Minh K, sinh ngày 08 tháng 9 năm 2012 và Lê Minh T, sinh ngày 09 năm 7 năm 2015 đang ở nhà cha, mẹ ruột tại địa chỉ Số 62/16, Tổ 5, Khu B, Ấp 5, xã AP, huyện LT, tỉnh Đồng Nai

Nay chị T xác định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh K không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lê Trung K.

Về con chung: Có 02 con chung tên Lê Minh K, sinh ngày 08/9/2012 và Lê Minh T, sinh ngày 09/7/2015. Khi ly hôn, chị yêu cầu được nuôi 2 con chung; về cấp dưỡng: Tại đơn khởi kiện ngày 13 tháng 6 năm 2018 chị T yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi hai con một tháng với số tiền 2.000.000 đồng tuy nhiên tại các lời khai tiếp theo cũng như phiên tòa ngày hôm nay chị T đều xác định không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi cả hai con.

Về tài sản chung, về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa giải quyết.

2. Tại biên bản lấy lời khai ngày 10 tháng 7 năm 2018, các lời khai tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn anh Lê Trung K trình bày như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Anh K và chị Hồ Thị Mỹ T đăng ký kết hôn tự nguyện năm 2012 tại Ủy ban nhân dân xã AP, huyện LT.

Qúa trình chung sống đến năm 2016 trở lại đây thì vợ chồng anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn cãi vã, anh chị đã ly thân từ năm 2016 đến nay, không còn quan tâm chăm sóc đến nhau bên cạnh đó trước đây chị T đã từng nộp đơn yêu cầu ly hôn ở Tòa án nhân dân huyện Long Thành một lần, ba anh K và ba chị T đã từng hòa giải quan hệ hôn nhân của anh và chị T.

Nguyên nhân mâu thuẫn là do chuyện tiền bạc anh K đi làm về và không đưa được nhiều tiền cho chị T lo cho con cái, cha vợ là ông Hồ Hoàng P không thích anh.

Nay chị T yêu cầu ly hôn với anh, anh không đồng ý do anh còn tình cảm với chị Hồ Thị Mỹ T.

Về con chung: Có hai con chung tên Lê Minh K, sinh ngày 08 tháng 9năm 2012 và Lê Minh T, sinh ngày 09 tháng 7 năm 2015.

Nếu Tòa án giải quyết ly hôn, anh yêu cầu nuôi cháu Lê Minh K, yêu cầu chị T nuôi Lê Minh T, anh sẽ không cấp dưỡng nuôi cháu T và không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi cháu Khôi.

Về tài sản chung, về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Ý kiến của kiểm sát viên tại phiên tòa:

+Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký trong việc xác định thẩm quyền, thu thập chứng cứ và tiến hành tố tụng đúng quy định. Hội đồng xét xử tiến hành tố tụng đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn được đảm bảo quyền lợi và chấp hành pháp luật trong suốt quá trình giải quyết vụ án.

+Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T.

Về con chung: Giao Lê Minh K, sinh ngày 08 tháng 9 năm 2012 và Lê Minh T, sinh ngày 09 tháng 7 năm 2015 cho chị T nuôi dưỡng, tạm thời anh K không phải cấp dưỡng nuôi các con chung. Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Hồ Thị Mỹ T và anh Lê Trung K tự nguyện kết hôn vào năm 2012 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã AP, huyện LT, tỉnh Đồng Nai theo Trích lục kết hôn số: 56/TLKH-BS được xem là hôn nhân hợp pháp.

Cả anh K và chị T đều xác định qúa trình chung sống đến năm 2016 trở lại đây thì anh, chị phát sinh nhiều mâu thuẫn cãi vã, anh chị đã ly thân từ năm2016, ba anh K và ba chị T từng hòa giải quan hệ hôn nhân của anh và chị. Khi cả hai phát sinh mâu thuẫn, chị T từng nộp đơn yêu cầu giải quyết ly hôn đến Tòa án nhân dân huyện Long Thành theo vụ án thụ lý số: 216/2017/TLST- HNGĐ ngày 30 tháng 3 năm 2017 sau đó vụ án bị đình chỉ theo Quyết định số: 136/2017/QĐST-HNGĐ ngày 17 tháng 7 năm 2017.

Nguyên nhân mâu thuẫn theo chị T là do anh K ăn chơi, không lo làm ăn, không có trách nhiệm với gia đình, không mang tiền về cho chị T lo cho con cái. Còn theo anh K nguyên nhân mâu thuẫn là do chuyện tiền bạc anh K đi làm về và không đưa được nhiều tiền cho chị T lo cho con cái, cha vợ là ông Hồ Hoàng P không thích anh.

Theo lời khai của cha anh K - ông Lê Đình N và cha chị T – ông Hồ Hoàng P đều xác định anh K và chị T có mâu thuẫn với nhau nên hiện nay anh chị đã sống ly thân và cả hai bên gia đình có hòa giải quan hệ hôn nhân của anh, chị nhưng không thành.

Toà án nhân dân huyện Long Thành đã tiến hành hòa giải quan hệ hôn nhân của anh K và chị T theo quy định định của pháp luật để anh K và chị T đoàn tụ nhưng chị T vẫn kiên quyết yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh K nên việc hòa giải không thành.

Do đó, đủ cơ sở xác định anh K và chị T không còn sống chung với nhau, quan tâm chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình, tạo điều kiện, giúp đỡ nhau tham gia các hoạt động kinh tế, xã hội trong khoảng thời gian khá dài từ năm 2016 đến nay đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng mà pháp luật quy định làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt nên giải quyết cho chị T và anh K ly hôn là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

Về con chung: Có 02 con chung tên Lê Minh K, sinh ngày 08 tháng 9 năm 2012 và Lê Minh T, sinh ngày 09 tháng 7 năm 2015. Khi ly hôn, chị T yêu cầu được nuôi 2 con chung; về cấp dưỡng: Không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi cả hai con. Còn anh K có yêu cầu nuôi cháu Lê Minh K, chị T nuôi dưỡng cháu Lê Minh T; về cấp dưỡng: Anh sẽ không cấp dưỡng nuôi cháu T và không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi cháu Khôi. Hội đồng xét xử nhận thấy:

- Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay, chị T cung cấp được các tài liệu chứng cứ thể hiện chị T có công việc, thu nhập ổn định, có khả năng nuôi con bên cạnh đó từ năm 2016 đến nay, hai con chung vẫn đang sinh sống ổn định cùng chị T và được chị T chăm sóc, nuôi dưỡng cả cha anh K - ông Lê Đình N, cha chị T – ông Hồ Hoàng P, anh K cũng thừa nhận việc này. Anh K trình bày anh làm nghề thợ hồ thu nhập một ngày là 320.000 đồng tuy nhiên anh không cung cấp được tài liệu, chứng cứ thể hiện anh có thu nhập ổn định để chăm lo cho con chung. Để có đủ cơ sở giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Long Thành tiến hành lời khai ông Nguyễn Văn Q - Trưởng Ấp 5, xã An Phước với tư cách là người trực tiếp quản lý địa bàn thì ông nhận thấy anh K thường ít đi làm, thường xuyên ở nhà nhậu nhẹt và về điều kiện kinh tế, hoàn cảnh gia đình chị T tốt hơn gia đình anh K.

Vì vậy, căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của cháu T và cháu K, Tòa án giao cháu K và cháu T cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; tạm thời anh K không phải cấp dưỡng nuôi cả 02 con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét.

Về án phí: Chị T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hôn nhân và gia đình.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a, khoản 1, Điều 35, khoản 1 Điều 39,và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

- Áp dụng khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn chị Hồ Thị Mỹ T đối với anh Lê Trung K. Xử cho chị T được ly hôn với anh Lê Trung K.

2. Về con chung: Giao Lê Minh K, sinh ngày 08 tháng 9 năm 2012 và Lê Minh T, sinh ngày 09 tháng 7 năm 2015 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, tạm thời anh K không phải cấp dưỡng nuôi các con chung.

Sau khi ly hôn anh Lê Trung K có quyền thăm nom con, không ai được cản trở anh K thực hiện quyền này. Trong trường hợp anh K lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con thì chị T có quyền yêu cầu Tòa án quyết định hạn chế quyền thăm nom con của anh K. Khi cần thiết các đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét.

4. Về án phí sơ thẩm: Chị Hồ Thị Mỹ T phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hôn nhân và gia đình là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) mà chị đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 002409 ngày 22 tháng 6 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành (Chị Tđã nộp xong).

5. Chị T, anh K có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 93/2018/HNGĐ-ST ngày 30/07/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:93/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về