TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 92/2021/HS-ST NGÀY 12/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 12 tháng 4 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 72/2021/HSST ngày 18 tháng 03 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 124/2021/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 03 năm 2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Quốc T; Tên gọi khác: không; Sinh năm 1972 tại TP.V, tỉnh Nghệ An; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT: khối 6, phường Q, TP.V, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Quốc L và bà Cao Thị T; Anh, chị, em ruột có 03 người, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; Vợ: Lê Thị C – sinh năm 1993, có 02 con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2014;
Tiền án: Ngày 21/08/2018 bị TAND TP.V, tỉnh Nghệ An xử phạt 18 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt ngày 16/07/2019;
Tiền sự: - Ngày 13/11/2017 bị Chủ tịch UBND TP.V, tỉnh Nghệ An xử phạt hành chính 50.000.000 đồng về hành vi “Kinh danh hàng hóa không có nguồn gốc xuất xứ”, chưa chấp hành quyết định xử phạt;
- Ngày 16/05/2018bị Công an TP.V, tỉnh Nghệ An xử phạt hành chính 17.000.000 đồng về hành vi “Kinh danh hàng hóa không có nguồn gốc xuất xứ”, chưa chấp hành quyết định xử phạt;
Nhân thân: Ngày 22/12/2006 bị TAND TP.V, tỉnh Nghệ An xử phạt 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt ngày 30/11/2008.
Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/01/2021 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 19 giờ 20 phút ngày 30/12/2020, tại khu vực tầng hầm chung cư C1 tòa nhà dầu khí thuộc xóm 17, xã N, TP.V, Nghệ An, tổ công tác Công an xã N phát hiện và bắt quả tang đối tượng Phạm Ngọc H (sinh năm 1976, trú tại: khối 6, phường Q, TP.V, tỉnh Nghệ An) có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ trên tay trái của H 01 gói được gói bên ngoài bằng bao potylen màu trắng, bên trong là giấy chống ẩm màu vàng chứa chất kết tinh màu trắng. Tại cơ quan Cảnh sát điều tra H khai nhận gói ma túy trên H mua của Nguyễn Quốc T để đem về sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị bắt quả tang. Ngày 04/01/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP.V thực hiện lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Quốc T tại khối 6, phường Q, TP.V, Nghệ An thu giữ: 01 chiếc cóng thủy tinh màu trắng được uốn cong có gắn ống hút nhựa trắng, phía đầu cóng có hình bầu tròn bên trong chứa chất tinh thể màu nâu; 01 bao ni lông màu trắng có chứa tinh thể màu trắng. Nguyễn Quốc T khai nhận số ma túy đá trên mua của một thanh niên trên L vào khoảng đầu tháng 12/2020 với giá 500.000 đồng, Tuấn đã sử dụng một ít, số còn lại chưa kịp sử dụng thì bị Công an khám xét và thu giữ.
Tại Kết luận giám định số 149/KL - PC09 ngày 05/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu chất tinh thể màu nâu thu giữ trong cóng thủy tinh và chất tinh thể màu trắng thu giữ trong bao nilon màu trắng của Nguyễn Quốc T gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine) có khối lượng lần lượt là 0,035 gam và 0.005 gam.
Vật chứng thu giữ của Nguyễn Quốc T gồm: 01 chiếc cóng thủy tinh màu trắng; 01 bình thủy tinh màu trắng, phía trên có nắp đậy hình bầu dục, ở giữa được đục lỗ bỏ ống cóng thủy tinh, phía bên nắp đậy hình bầu có một ống thủy tinh màu trắng được uốn cong, phía đáy bình có dán nắp nhôm hình tròn màu xanh; 01 ống hút bằng nhựa màu trắng và 01 bật lửa ga màu trắng. Số ma túy Methamphetamine thu giữa của T khi bị bắt và khám xét có tổng khối lượng 0,040g, quá trình giám định đã sử dụng hết.
Cáo trạng số 106/CT-VKS-TPV ngày 16/03/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố V đã truy tố Nguyễn Quốc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 BLHS.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt Nguyễn Quốc T từ 18 đến 21 tháng tù; Ngoài ra, đề nghị miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo và đề nghị xử lý vật chứng, án phí theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không tranh luận gì mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, Kiểm sát viên đã được thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung:
[2.1] Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Quốc T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng Viện kiểm sát truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra và tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án. Vì vậy, có đầy đủ cơ sở để khẳng định: Vào khoảng 12 giờ 30 phút ngày 04/01/2021, tại nơi ở của Nguyễn Quốc T thuộc khối 6, phường Q, TP.V, tỉnh Nghệ An, Nguyễn Quốc T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,040 gam ma túy (Methamphetamine) để sử dụng thì bị Công an khám xét khẩn cấp thu giữ. Nguyễn Quốc T đã bị kết án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chưa được xóa án tích do đó hành vi mà Nguyễn Quốc T thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 BLHS như cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố là đúng người, đúng tội.
[2.2] Vụ án thuộc loại nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, vi phạm các quy định của Nhà nước về việc quản lý các chất ma túy. Ma túy là chất gây nghiện, làm ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, giống nòi, cũng là nguyên nhân gây ra nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm nguy hiểm khác. Bị cáo có nhân thân xấu, bản thân bị cáo nhận thức rõ ma túy là chất độc hại, Nhà nước cấm mua bán, tàng trữ, sử dụng, vận chuyển nhưng vẫn liều lĩnh thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo nghiêm minh, tương xứng với tính chất hành vi và mức độ phạm tội để cải tạo, giáo dục bị cáo và làm gương răn đe những đối tượng khác. Do đó, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đủ để giáo dục riêng cũng như phòng ngừa chung.
Tuy nhiên, xét thấy quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải nên cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, để bị cáo thấy sự khoan hồng của pháp luật mà cải tạo, sửa chữa như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.
[2.3] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có công ăn việc làm ổn định, không có tài sản riêng nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.
[2.4] Trong vụ án này, theo lời khai của Nguyễn Quốc T, nguồn gốc số ma túy của T bị Cơ quan Cảnh sát điều tra thu giữ, T khai mua của đối tượng tên L. Cơ quan điều tra đã xác minh được đối tượng Ngô Xuân L, sinh năm 1980, trú tại khối D, phường T, TP.V, tỉnh Nghệ An nhưng hiện nay L không có mặt tại địa phương nên chưa đủ căn cứ để xử lý, khi nào điều tra làm rõ sẽ xử lý sau.
[2.5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 điều 47 BLHS và điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS: tịch thu tiêu hủy 01 chiếc phong bì thư bưu điện bên trong là vỏ giấy niêm phong và 01 cóng thủy tinh màu trắng được uốn cong, phía đầu cóng có hình tròn; 01 bình thủy tinh màu trắng, phía trên có nắp đậy hình bầu; 01 ống hút bằng nhựa màu trắng và 01 bật lửa ga màu trắng không có giá trị.
[2.6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Quốc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt Nguyễn Quốc T 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/01/2021.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS: tịch thu tiêu hủy 01 chiếc phong bì thư bưu điện bên trong là vỏ giấy niêm phong và 01 cóng thủy tinh màu trắng được uốn cong, phía đầu cóng có hình tròn; 01 bình thủy tinh màu trắng, phía trên có nắp đậy hình bầu; 01 ống hút bằng nhựa màu trắng và 01 bật lửa ga màu trắng (Số vật chứng này hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V theo Phiếu nhập kho số NK 2021/158 ngày 26/03/2021).
Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc Nguyễn Quốc T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 92/2021/HS-ST ngày 12/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 92/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/04/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về