Bản án 92/2020/HS-ST ngày 20/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 92/2020/HS-ST NGÀY 20/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 90/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 04 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 93/2020/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn Đ, tên gọi khác: Không; sinh năm 1973, tại Điện Biên; nơi cư trú: Bản P, Xã P, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 05/10; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lò Văn L, sinh năm 1925 và con bà: Lò Thị L1 (đã chết); có vợ: Lò Thị Bình, sinh năm 1989 và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2006, con nhỏ nhất sinh năm 2019; tiền sự: Không; tiền án: có 01 tiền án, Bản án số 47/2000/HSST ngày 13/4/2000 Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu, xử phạt bị cáo 05 năm 06 tháng tù về các tội “Chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, “Mua bán trái phép chất ma túy”, phạt bổ sung 20.000.000 đồng sung ngân sách Nhà nước, tịch thu 1.000.000 đồng; bị cáo phải chịu 50.000 đồng án phí HSST. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù, án phí, phạt bổ sung 500.000 đồng, được xét giảm nghĩa vụ thi hành án hai lần với tổng số tiền 8.968.000 đồng; còn chưa chấp hành xong hình phạt bổ xung và bị cáo còn phải thi hành tiếp số tiền 11.532.000 đồng; nhân thân: Đã bị kết án, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 15/01/2020, tạm giam từ ngày 17/01/2020 đến nay bị cáo có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 15/01/2020, Lò Văn Đ đi bộ từ nhà ở Bản P, Xã P, huyện Điện Biên tìm mua Heroine để sử dụng. Khi đi đến khu vực cầu Pá Nậm, Xã P, Đ đã gặp và mua được một gói Heroine bằng nilon màu đen với giá 200.000 đồng của một người đàn ông dân tộc Thái khoảng 40 tuổi không rõ lai lịch. Mua bán xong, Đ cầm gói Heroine về nhà, dùng tay chia thành 11 gói đều gói bằng nilon màu đen và hơ lửa hàn kín. Đ lấy mảnh nilon màu đen gói mười gói lại và cất vào khe mái ngói ở hiên nhà, còn một gói thì cất ở khe cột nhà Đ. Hồi 11 giờ 20 phút ngày 15/01/2020, Đ lấy gói Heroine ở khe cột ra cầm ở tay phải để chuẩn bị sử dụng thì bị Tổ công tác Công an huyện Điện Biên vào nhà kiểm tra, thu giữ trên tay phải của Đ gói Heroine bằng nilon màu đen khối lượng 0,06 gam. Hồi 12 giờ 45 phút ngày 15/01/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên tiến hành khám xét khẩn cấp đối với Lò Văn Đ, thu giữ tại khe mái ngói hiên nhà Đ một gói bằng nilon màu đen, bên trong có 10 gói Heroine bằng nilon màu đen được hơ lửa hàn kín có khối lượng 0,42 gam. Mục đích Đ cất giấu để bản thân sử dụng.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận lại toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Mọi lời khai hoàn toàn phù hợp với nội dung vụ án đã nêu trên và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong và xác định khối lượng lấy mẫu giám định, kết luận giám định, kết luận điều tra....

Kết luận giám định số 127/GĐ-PC09 ngày 22/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: 02 mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Đ gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine; Khối lượng vật chứng thu giữ của Đ là 0,48 gam; Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 9, Mục IA, danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018; Không hoàn lại đối tượng giám định.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại về kết luận Giám định nêu trên.

Tại bản Cáo trạng số 89/CT - VKSĐB ngày 16/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo mức án từ 18 (mười tám) tháng tù đến 21 (hai mươi mốt) tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 0,48 gam Heroine, đã gửi 0,12 gam giám định không hoàn lại đối tượng giám định là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành. Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14, bị cáo Lò Văn Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát, không có ý kiến gì tranh luận.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi HĐXX nghị án: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau.

[1]. Hành vi của bị cáo được chứng minh như sau: Khoảng 09 giờ, ngày 15/01/2020, Lò Văn Đ đến khu vực cầu Pá Nậm, Xã P, đã gặp và mua được một gói Heroine của một người đàn ông dân tộc Thái khoảng 40 tuổi với giá 200.000 đồng, Đ dùng tay chia thành 11 gói, Đ định lấy ra sử dụng 01 gói thì bị phát hiện bắt quả tang thu giữ toàn bộ vật chứng, gói Heroine bên tay trái có khối lượng 0,06 gam, gói Herine khám xét tại khe mái ngói nhà Đ có khối lượng 0,42 gam. Tổng 0,48 gam. Mục đích Đ mua về để bản thân sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đầy đủ yếu tố cấu thành tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2]. Về tính chất, mức độ gây nguy hiểm cho xã hội thấy rằng: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Bị cáo đã tiếp tay cho những người khác chuyên buôn bán các chất ma túy ngày càng phát triển, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, làm ảnh hưởng tới trật tự trị an, an toàn trong xã hội trên địa bàn huyện Điện Biên nói riêng cũng như địa bàn tỉnh Điện Biên nói chung. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, tính chất hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình gây ra, nên bị cáo phải bị xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[3]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại Điện Biên, học đến lớp 5/10 thì nghỉ học. Ngày 14/9/1995 Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” xử phạt bị cáo 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 18 tháng theo bản án số 29/HSST. Ngày 14/3/2000 Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu xét xử về 03 tội “Chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, “tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; tổng hợp hình phạt chung của cả 3 tội là 05 năm 06 tháng tù giam; phạt bổ sung 20.000.000 đồng sung ngân sách Nhà nước, tịch thu 1.000.000 đồng; bị cáo phải chịu 50.000 đồng án phí HSST. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù, án phí, phạt bổ sung 500.000 đồng, được xét giảm nghĩa vụ thi hành án hai lần với tổng số tiền 8.968.000 đồng; còn chưa chấp hành xong hình phạt bổ xung và bị cáo còn phải thi hành tiếp số tiền 11.532.000 đồng; Bị cáo phạm tội mới trong thời gian chưa được xóa án tích lại phạm tội do cố ý, nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý và nghiêm trọng, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải có một hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[4]. Về hành vi của bị cáo bị truy tố và các quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng huyện Điện Biên và những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng đã được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì, không khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật và được chấp nhận.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, song xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo nghiện ma túy, nguồn thu chính từ làm ruộng. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng các hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Nguồn gốc số Heroine bị thu giữ, bị cáo khai mua của một người đàn ông dân tộc Thái, khoảng 40 tuổi không biết tên, địa chỉ. Vì vậy cơ quan điều tra không có cơ sở điều tra làm rõ. Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xử lý.

[7]. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 0,48 gam Heroine, trích mẫu 0,12 gam gửi giám định không hoàn lại, vật chứng còn lại là 0,36 gam Heroine là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành.

[8]. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14, bị cáo Lò Văn Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự;

1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn Đ phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

2. Xử phạt bị cáo Lò Văn Đ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ ngày 15/01/2020.

3. Vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 0,48 gam Heroine, trích mẫu 0,12 gam gửi giám định không hoàn lại, vật chứng còn lại là 0,36 gam Heroine là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành.

(Toàn bộ vật chứng của vụ án đã được cơ quan Điều tra Công an huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên chuyển giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên theo Biên bản bản giao nhận vật chứng ngày 20/4/2020).

4. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14, bị cáo Lò Văn Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (20/5/2020)./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 92/2020/HS-ST ngày 20/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:92/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về