Bản án 92/2020/HSST ngày 08/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO BẰNG, TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 92/2020/HSST NGÀY 08/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 9 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 94/ 2020/ HSST ngày 18 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 167/2020/QĐXXST-HS ngày 27/8/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng đối với bị cáo:

Họ và tên: Ngân Bá D; Tên gọi khác: không; Giới tính: nam; Sinh ngày 17 tháng 12 năm 1989 tại: huyện T, Cao Bằng; HKTT: xóm P, xã C, huyện T, tỉnh Cao Bằng; Chỗ ở hiện nay: Lang thang; Dân tộc: tày; Quốc tịch: Việt Nam;

Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: không nghề; Trình độ học vấn: 8/12; Con ông: Ngân Bá C - sinh năm 1952; Con bà: Lâm Thị C (đã chết); Có 04 anh chị em, bị cáo là con út trong gia đình; Vợ, con: chưa có; Tiền sự: không; Tiền án: Ngày 25/10/2018 Tòa án nhân dân huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; Nhân thân: ngày 28/6/2011 Ủy ban nhân dân thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông ra Quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng từ ngày 19/6/2020 đến nay; Có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Nông Thị H Địa chỉ: Tổ M, phường T, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng. Vắng mặt có lý do.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Hoàng Trung H Địa chỉ: Tổ H, phường H, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng. Vắng mặt có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng giữa tháng 6/2020 Ngân Bá D từ nhà tại xóm P, xã C, huyện T, tỉnh Cao Bằng đến sống lang thang tại khu vực thành phố Cao Bằng. Đến khoảng 16h ngày 18/6/2020, D đi bộ đến khu vực ngã tư Tân An tại Tổ M, phường T, thành phố Cao Bằng thì nhìn thấy quán bán nước mía của chị Nông Thị H không có người trông coi, tại quán có 01 chiếc điện thoại di động để trong tủ kính nên nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại trên. D tiến vào mở tủ kính, sau đó lấy trộm chiếc điện thoại trên rồi bước bộ về hướng Chợ xanh tìm nơi tiêu thụ. Khi đến Cửa hàng sửa chữa điện thoại di động "H" tại khu vực Chợ Xanh, thành phố Cao Bằng của Hoàng Trung H, D đã bán chiếc điện thoại trên cho H với giá 500.000 đ (năm trăm nghìn đồng) và giữ lại chiếc sim bên trong điện thoại mang theo người. Số tiền bán điện thoại có được D đã sử dụng để ăn uống hết 100.000 đ (một trăm nghìn đồng) và mua ma túy để sử dụng hết 400.000 đ (bốn trăm nghìn đồng), sau đó bị cơ quan Công an bắt giữ, thu giữ chiếc sim điện thoại trên.

Ngày 23/6/2020, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng ban hành yêu cầu định giá tài sản số 151 đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo K3 và ngày 03/7/2020 ban hành yêu cầu định giá tài sản số 161 đối với 01 sim điện thoại di động nhà mạng Vinaphone có số thuê bao 0833664468. Tại bản kết luận định giá tài sản số 35 ngày 28/6/2020 của hội đồng định giá tài sản kết luận: "Giá trị tài sản (điện thoại di động Oppo K3) là: 3.594.000 đ (ba triệu năm trăm chín mươi bốn nghìn đồng)". Tại bản kết luận định giá tài sản số 39 ngày 12/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản kết luận: "Giá trị tài sản (sim điện thoại di động nhà mạng Vinaphone) là: 150.000 đ (một trăm năm mươi nghìn đồng)".

Ngày 23/7/2020, cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Nông Thị H 01 điện thoại di động Oppo K3 và 01 sim nhà mạng Vinaphone có số thuê bao 0833664468. Tại bản Cáo trạng số: 94/CT-VKSTP ngày 18/8/2020 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng đã truy tố bị cáo Ngân Bá D về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Ngân Bá D thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố.

Về trách nhiệm dân sự: Bà Nông Thị H đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu hay đề nghị bị cáo Ngân Bá D phải có trách nhiệm bồi thường dân sự. Nên không đặt ra việc xem xét giải quyết.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Hoàng Trung H do không biết chiếc điện thoại OPPO bị cáo đem đến bán là tài sản trộm cắp mà có nên đã mua lại với bị cáo. Trong đơn xin xét xử vắng mặt, anh H không yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 500.000 đ (năm trăm nghìn đồng), nên không đặt ra việc xem xét giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 - Bộ luật hình sự, tuyên bố bị cáo Ngân Bá D phạm tội “Trộm cắp tài sản”, xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: không.

Về trách nhiệm dân sự: không đặt ra việc xem xét giải quyết. Vật chứng vụ án: không có nên không xem xét giải quyết.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội; buộc bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng. Khi được nói lời sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo sớm được đoàn tụ cùng gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, Kiểm sát viên thu thập về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các tài liệu, chứng cứ cũng như hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng như đã nêu trên. Do đó, các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội và điều khoản xét xử: Tại cơ quan điều tra cũng như trước phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại; Bản kết luận định giá tài sản số 35 ngày 28/6/2020 của hội đồng định giá tài sản kết luận: "Giá trị tài sản (điện thoại di động Oppo K3) là: 3.594.000 đ (ba triệu năm trăm chín mươi bốn nghìn đồng)". Tại bản kết luận định giá tài sản số 39 ngày 12/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản kết luận: "Giá trị tài sản (sim điện thoại di động nhà mạng Vinaphone) là: 150.000 đ (một trăm năm mươi nghìn đồng)" cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định: Khoảng 16h00 ngày 18/6/2020 tại Tổ M, phường T, thành phố Cao Bằng, Ngân Bá D đã có hành vi trộm cắp 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo K3 trị giá 3.594.000 đ (ba triệu năm trăm chín mươi bốn nghìn đồng) và 01 sim nhà mạng Vinaphone trị giá 150.000 đ (một trăm năm mươi nghìn đồng) của chị Nông Thị H. Tổng giá trị tài sản D trộm cắp là: 3.744.000 đ (ba triệu bảy trăm bốn mươi bốn nghìn đồng).

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tới quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Hành vi này không những làm ảnh hưởng tới tình hình trật tự trị an trên địa bàn thành phố Cao Bằng mà còn gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong việc quản lý, bảo vệ tài sản của người dân. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc chiếm đoạt tài sản là vi phạm pháp luật nhưng vì cần tiền tiêu xài bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Xét về hành vi và giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt đã đủ yếu tố cấu thành Tội trộm cắp tài sản. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng truy tố bị cáo về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo là con nghiện ma túy, có 01 tiền án, nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân để tu dưỡng rèn luyện để trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội mà còn lún sâu vào con đường phạm tội. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngân Bá D có 01 tiền án, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "tái phạm" quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị cáo chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho người bị hại. Nay bị hại không có yêu cầu bị cáo bồi thường nên không đặt ra việc xem xét giải quyết.

Đối với hành vi của Hoàng Trung H khi mua chiếc điện thoại với D, H không biết chiếc điện thoại trên là tài sản do D trộm cắp mà có nên cơ quan điều tra không tiến hành xử lý đối với hành vi của H là có căn cứ. Trong đơn xin xét xử vắng mặt, anh H không yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 500.000 đ (năm trăm nghìn đồng); đây là ý chí tự nguyện của anh H nên cần được ghi nhận. Do vậy, Hội đồng xét xử không đặt ra việc xem xét giải quyết.

[5] Về hình phạt chính: Căn cứ vào nhân thân của bị cáo; tính chất, mức độ nguy hiểm, hậu quả do hành vi bị cáo gây ra và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; Hội đồng xét xử xét thấy mức đề nghị hình phạt của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng đối với bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật nên cần được chấp nhận.

[6] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự còn quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng…” . Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cũng như lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập. Do vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ nhà nước.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Ngân Bá D phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Căn cứ: khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 - Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Ngân Bá D 12 (mười hai) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày 19/6/2020.

Áp dụng: khoản 1, khoản 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Bị cáo Ngân Bá D phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.

3. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 332, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 92/2020/HSST ngày 08/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:92/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Bằng - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về