Bản án 92/2020/HNGĐ-ST ngày 25/08/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 92/2020/HNGĐ-ST NGÀY 25/08/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 25 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 319/2020/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 5 năm 2020 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 100/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 7 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 75/2020/QĐST – HNGĐ ngày 05/8/2020, giữa các đương sự.

1. Nguyên đơn: Anh Lê Viết Q, sinh năm 1977; thường trú: Xóm 5, thôn B, xã N, huyện Q, tỉnh T; chổ ở hiện nay: Nhà số 8, đường 8, phường T, quận 7, thành phố H, có đơn xin giải quyết vắng mặt.

2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1988; thường trú: Xóm 5, thôn B, xã N, huyện Q, tỉnh T; tạm trú: 18/59 khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 28/4/2020 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn anh Lê Viết Q trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Lê Viết Q và chị Nguyễn Thị N sau thời gian tìm hiểu, được gia đình hai bên đồng ý thì tự nguyện về chung sống với nhau, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện Q, tỉnh T vào ngày 05/12/2018 (Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 51). Sau khi kết hôn vợ chồng cùng vào Miền nam làm ăn. Trước khi về chung sống với nhau thì anh Q và chị N đã từng có gia đình riêng nên mong muốn tìm được sự đồng cảm. Tuy nhiên, vợ chồng chỉ sống hạnh phúc được khoảng 04 tháng thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân phát sinh từ việc chị N luôn xét nét đến quá khứ của anh Q, không tôn trọng và có những lời lẽ xúc phạm đối với anh Q. Anh Q đã từng nói chuyện thẳng thắn với chị N mong tìm được tiếng nói chung nhưng không thành. Vợ chồng gặp nhau là phát sinh mâu thuẫn, cuộc sống vô cùng ngột ngạt. Khoảng tháng 3/2020, anh Q đã từng làm đơn xin ly hôn với chị N tại Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh B để yêu cầu được ly hôn nhưng do chị N tự ý chuyển nơi cư trú nên anh Q phải rút đơn để khởi kiện lại. Thực tế từ tháng 5/2019 đến nay anh Q và chị N đã sống ly thân, không còn quan tâm chăm sóc nhau. Anh Q xác định không còn tình cảm với chị N nên yêu cầu ly hôn.

Về con chung: Quá trình sống chung giữa anh Lê Viết Q và chị Nguyễn Thị N chưa có con chung.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Anh Lê Viết Q không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn chị Nguyễn Thị N: Quá trình tố tụng, chị N đã được Tòa án gửi thông báo về việc thụ lý vụ án, các tài liệu chứng cứ do anh Lê Viết Q cung cấp và các tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập; triệu tập tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 10/7/2020; tham gia phiên tòa vào các ngày 05/8/2020 và ngày 25/8/2020, tuy nhiên chị N vắng mặt không có lý do, không cung cấp chứng cứ và không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của anh Lê Viết Q.

- Tại biên bản xác minh của Tòa án nhân dân thành phố D tại Hội liên hiệp phụ nữ phường A, thành phố D thể hiện: Quá trình anh Lê Viết Q và chị Nguyễn Thị N sinh sống tại địa phương, chính quyền không nhận được đơn thư hay trình báo gì về việc anh, chị có mâu thuẫn trong gia đình nên chính quyền địa phương không biết được mâu thuẫn giữa vợ chồng anh, chị là gì cũng như công việc, thu nhập hay con cái của anh Q, chị N.

- Kết quả xác minh tại Công an phường A thể hiện: Chị Nguyễn Thị N có đăng ký tạm trú và hiện đang sinh sống tại địa chỉ: 18/59 khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố D tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa, Tòa án và nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là đúng quy định.

Về việc giải quyết vụ án:

+ Về quan hệ hôn nhân, anh Lê Viết Q và chị Nguyễn Thị N có đăng ký kết hôn nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Quá trình tố tụng, chị N không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án, không cung cấp lời khai và chứng cứ về quan hệ hôn nhân nên có cơ sở xác định mâu thuẫn giữa vợ chồng anh Q và chị N là trầm trọng, anh Q có yêu cầu ly hôn là có căn cứ.

+ Về con chung, anh Q xác định vợ chồng chưa có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. + Về tài sản chung và nợ chung nguyên đơn không tranh chấp, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát, Tòa án nhận định:

[1] Về sự vắng mặt của các đương sự: Tòa án đã triệu tập hợp lệ chị Nguyễn Thị N để tham gia phiên tòa vào các ngày 05/8/2020 và ngày 25/8/2020 nhưng chị N vắng mặt không rõ lý do. Ngày 10/7/2020, nguyên đơn anh Lê Viết Q nộp đơn từ chối hòa giải và có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Căn cứ các Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Tòa án xét xử vắng mặt anh Q, chị N.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Lê Viết Q và chị Nguyễn Thị N là vợ chồng, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện Q, tỉnh T vào ngày 05/12/2018 (Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 51) nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Anh Q xác định trong quá trình chung sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, tình cảm vợ chồng không còn, thực tế đã sống ly thân từ tháng 5 năm 2019 nên không thể tiếp tục chung sống được với nhau và yêu cầu được ly hôn. Sau khi Tòa án thụ lý vụ án và nhiều lần triệu tập chị Nguyễn Thị N đến làm việc nhưng chị N đều vắng mặt không rõ lý do, không đến tham gia phiên hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Đồng thời, chị N cũng không có văn bản nào thể hiện thiện chí đưa ra phương pháp hàn gắn mối quan hệ giữa chị và anh Q nên có cơ sở xác định cuộc sống hôn nhân của anh Q và chị N phát sinh nhiều mâu thuẫn, không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, anh Lê Viết Q yêu cầu được ly hôn với chị Nguyễn Thị N là phù hợp với quy định của Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên có căn cứ chấp nhận.

[3] Về con chung: Anh Lê Viết Q xác định quá trình sống chung giữa anh và chị Nguyễn Thị N chưa có con chung. Chị Nguyễn Thị N vắng mặt, không có ý kiến gì đối với lời trình bày của anh Q về vấn đề con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Anh Lê Viết Q không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét.

[5] Từ những phân tích nêu trên, Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương về việc giải quyết vụ án.

[6] Về án phí: Anh Lê Viết Q phải chịu án phí ly hôn theo quy định tại Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51 và 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014:

Căn cứ khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Căn cứ Điểm a Khoản 5 và Điểm a Khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Anh Lê Viết Q được ly hôn với chị Nguyễn Thị N (Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 51 do Ủy ban nhân dân xã N, huyện Q, tỉnh T cấp ngày 05/12/2018).

2. Về con chung: Không có.

3. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Anh Lê Viết Q phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng án phí ly hôn, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng đã nộp theo Biên lai số 0040399 ngày 07/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố D, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

259
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 92/2020/HNGĐ-ST ngày 25/08/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:92/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về