Bản án 92/2020/HNGĐ-ST ngày 07/08/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 92/2020/HNGĐ-ST NGÀY 07/08/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 07 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 305/2020/TLST-HNGĐ, ngày 29 tháng 5 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 172/2020/QĐXXST – HNGĐ ngày 19 tháng 6 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 199/2020/QĐST – HNGĐ ngày 17/7/2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1986.

Địa chỉ: Số 24/5 Bis, đường H, khóm 3, phường L, thành phố X, tỉnh An Giang.

- Bị đơn: Ông Ngô Thanh H, sinh năm 1981.

Địa chỉ: Số 24/5 Bis, đường H, khóm 3, phường L, thành phố X, tỉnh An Giang.

( bà N có đơn xin xét xử vắng mặt; ông H vắng mặt lần 2 không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai cùng ngày 22/5/2020 và tại biên bản không tiến hành hòa giải được, nguyên đơn là bà Nguyễn Thị N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà N và ông H do tự tìm hiểu yêu thương nhau sau đó tiến tới hôn nhân vào năm 2003, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường L ngày 16/02/2004. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian đầu sau đó phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung, thường xuyên cãi vã, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng,vợ chồng không có tình cảm. Bà N và ông H đã ly thân từ năm 2009 đến nay, bà N nhận thấy vợ chồng sống với nhau không hạnh phúc sau nhiều lần hàn gắn nhưng không thành, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà N yêu cầu được ly hôn với ông H.

Về quan hệ con chung: Có 02 (hai) con chung tên Ngô Thị O, sinh ngày 12/01/2004 và Ngô Hoàng N, sinh ngày 29/9/2009, khi ly hôn bà N yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông H cấp dưỡng.

Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn ông Ngô Thanh H không nộp cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà N và vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án.

* Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án:

Bà N có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt vào ngày 17/7/2020, lý do phải đi làm, điều kiện đi lại khó khăn nên không về dự tòa được. Ông H vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, thành phần Hội đồng xét xử cũng như xác định quan hệ tranh chấp, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng trong vụ án đúng theo qui định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng:

+ Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

+ Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Về nội dung:

Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị N đối với ông Ngô Thanh H.

Về con chung: Ngô Thị O, sinh ngày 12/01/2004 và Ngô Hoàng N, sinh ngày 29/9/2009. Xét thấy, để đảm bảo ổn định về tinh thần và đảm bảo quy ền lợi về mọi mặt cho con chung nên đồng ý để 02 cháu cho bà N được tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng theo quy định tại Điều 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Đương sự không có yêu cầu nên không xem Về tài sản chung và nợ chung: Tự thỏa thuận. Không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại Phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Tranh chấp giữa bà Nguyễn Thị N và ông Ngô Thanh H là tranh chấp về Hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên thụ lý giải quyết.

[1.2] Bà Nguyễn Thị N có đơn đề nghị xét xử vắng mặt do phải đi làm, đi lại khó khăn nên không về dự tòa được. Căn cứ khoản 1 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt bà N.

[1.3] Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng theo qui định tại Điều 177 Bộ luật Tố tụng dân sự, đồng thời tiến hành thu thập chứng cứ để xác định tình trạng cư trú của ông Ngô Thanh H và được Công an phường L, thành phố X cung cấp thông tin: “Ông Ngô Thanh H, sinh năm 1981 có đăng ký hộ khẩu thường trú tại số 24/5Bis, đường H, khóm 3, phường L, thành phố X, tỉnh An Giang. Hiện tại đương sự Ngô Thanh H đang sinh sống tại địa chỉ nêu trên ”. Do đó, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vắng mặt ông H.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà N và ông H tự tìm hiểu yêu thương nhau sau đó tiến tới hôn nhân vào năm 2003, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường L ngày 16/02/2004. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian đầu sau đó phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung, thường xuyên cãi vã, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng,vợ chồng không có tình cảm. Bà N và ông H đã ly thân từ năm 2009 đến nay, bà N nhận thấy vợ chồng sống với nhau không hạnh phúc sau nhiều lần hàn gắn nhưng không thành, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà N yêu cầu được ly hôn với ông H.

Phía bị đơn được Tòa án nhiều lần tống đạt các văn bản tố tụng do mẹ ruột là bà Cao Thị H1 và em ruột là Ngô Thành M, Ngô Thành T cùng nơi cư trú nhận thay và cam kết giao lại cho ông H. Tuy nhiên, ông H vẫn không gửi văn bản trình bày ý kiến của mình qua yêu cầu ly hôn của bà N và không đến tham gia hòa giải. Như vậy, ông H đã từ bỏ quyền và nghĩa vụ của bị đơn được quy định tại Điều 70 và Điều 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự và đồng nghĩa với việc ông không còn quan tâm đến mối quan hệ hôn nhân của mình.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cũng động viên bà N và tạo thêm thời gian để vợ chồng bà N, ông H có cơ hội để hàn gắn tình cảm. Tuy nhiên, bà N vẫn cương quyết yêu cầu ly hôn vì trước đây bà N cũng đã có nộp đơn xin ly hôn tại tòa, sau đó thì bà N tự nguyện rút lại yêu cầu ly hôn để vợ chồng hàn gắn tình cảm nhưng vợ chồng bà N vẫn không thể hàn gắn được và bà N tiếp tục nộp đơn xin ly hôn với ông H. Từ đó, có thể nhận thấy tình cảm của bà Ndành cho chồng không còn, tình trạng mâu thuẫn trong hôn nhân của ông bà đã trầm trọng. Xét thấy, mục đích hôn nhân giữa bà N và ông H không đạt được, nếu tiếp tục duy trì cuộc hôn nhân này cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu của bà N được ly hôn với ông H.

[2.2] Về con chung: Bà N và ông H có 02 (Hai) con chung tên Ngô Thị O, sinh ngày 12/01/2004 và Ngô Hoàng N, sinh ngày 29/9/2009. Lời khai của bà N phù hợp với bản sao trích lục khai sinh do Ủy ban nhân phường L cấp ngày 19/9/2014. Xét thấy, nguyện vọng các con chung muốn sống với bà N. Do đó, nhằm đảm bảo ổn định về tinh thần và đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho con chung nên chấp nhận yêu cầu được nuôi con của nguyên đơn, giao con chung cho bà N chăm sóc nuôi dưỡng căn cứ theo quy định tại Điều 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Xét thấy, người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Bà N không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

Bà N và gia đình phải tạo điều kiện thuận lợi cho ông H được thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các con chung. Việc nuôi con không cố định.

[2.4] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Bà N trình bày không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung. Do bị đơn ông H cũng không có ý kiến về việc phân chia tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này, các bên phát sinh tranh chấp thì sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.

[3] Về án phí : Bà Nguyễn Thị N phải nộp án phí Hôn nhân sơ thẩm theo qui định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 177; khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228; Điều 238, Điều 273 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị N. Bà Nguyễn Thị N được ly hôn với ông Ngô Thanh H.

- Về con chung: Cháu Ngô Thị O, sinh ngày 12/01/2004 và Ngô Hoàng N, sinh ngày 29/9/2009. Bà Nđược quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục các con chung. Ông H không phải cấp dưỡng nuôi con.

Bà N cùng các thành viên trong gia đình phải tạo điều kiện cho ông H thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung. Việc nuôi con không cố định.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét.

Về án phí Bà N phải chịu 300.000 đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hôn nhân và gia đình. Do bà N đã nộp 300.000 đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0003082 ngày 29/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên, bà N đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Bà Nguyễn Thị N và ông Ngô Thanh H được quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 92/2020/HNGĐ-ST ngày 07/08/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:92/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về