Bản án 92/2019/HS-ST ngày 16/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DIỄN CHÂU, TỈNH NGHỆ AN 

BẢN ÁN 92/2019/HS-ST NGÀY 16/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 84/2019/TLST-HS ngày 20 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 114/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 7 năm 2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Ngô Sỹ C (Tên gọi khác: Đôi Thám); sinh ngày: 01 tháng 7 năm 1994 tại huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Thôn 3A, xã DK, huyện DC, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Ngô Sỹ Th và con bà: Trần Thị M; vợ, con: Chưa có; tiền sự: Không; tiền án: Ngày 14/11/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An xử phạt 15 (mười lăm) tháng tù, về các tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và “Đánh bạc” (bản án số 132/2018/HSST, Quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm số 38/2019/HSPT-QĐ ngày 25/4/2019); nhân thân: Ngày 10/10/2013 bị Công an huyện Diễn Châu xử phạt vi phạm hành chính 750.000đồng (bảy trăm năm mươi ngàn đồng), về hành vi vi phạm lĩnh vực an ninh trật tự; bị tạm gữ, tạm giam: Từ ngày 24/4/2019 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

Chị Võ Thị Ng, sinh năm 1979. Có mặt.

Nơi cư trú: Xóm 2, xã DT, huyện DC, Nghệ An.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Anh Ngô Đình D, sinh năm 1988. Có mặt.

Nơi cư trú: Thôn 7, xã DK, huyện DC, Nghệ An.

- Người làm chứng:

Anh Ngô Sỹ M, sinh năm 1994. Có mặt.

Anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1997. Vắng mặt.

Chị Trần Thị L (tên gọi khác: Kh), sinh năm 1995. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

- Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Khong 23h ngày 30/3/2019, hai anh em sinh đôi (Ngô Sỹ C, Ngô Sỹ M) và Phan Văn H, Nguyễn Văn Qu tổ chức ăn uống tại nhà Trần Thị L (xóm 2, xã DT). Sau khi uống rượu xong, do cần tiền để đi chơi, C nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Khoảng 02h20 phút, ngày 31/3/2019, C cởi trần một mình đi bộ qua cổng phụ nhà thờ họ vào nhà chị Võ Thị Ng ở cạnh nhà L, thấy 01 (một) xe máy điện màu đỏ, không có biển kiểm soát, dựng ở sân trước nhà. Quan sát thấy chủ nhà đã ngủ say, không có ai trông coi tài sản, C đi lại gần mở khóa, nổ máy, điều khiển xe đi đến nhà văn hóa xóm 2, xã DT cất dấu. Sau đó, C đi bộ về nhà chị L, mặc áo, đến khoảng 02h55 phút, cùng ngày, C quay lại nhà văn hóa lấy xe máy điện đưa đến một số nơi quen biết để cắm, nhưng không được. Ăn uống xong, không thấy C, nên M rủ Qu đi tìm nhưng không thấy. M chở Qu về nhà, khi đi đến trạm Cảnh sát giao thông 1.5 thuộc địa phận xã DH. Qu và M thấy C chạy xe máy điện cùng chiều phía trước. M hỏi C “mi đi xe của ai đó”, C trả lời “em mượn của thằng S con mợ Ng”. M rủ C đi về nhà Qu. Đến 03h cùng ngày, C chở M về nhà L. Sau đó, C tiếp tục đi xe máy điện về thôn 7, xã DK, thì gặp Ngô Đình D, C gửi xe máy cho D và hỏi “anh cho em mượn một triệu được không”. D đồng ý và đưa cho C 1.000.000đồng (một triệu đồng). C đến quán Internet và sử dụng hết số tiền. Ngày 31/3/2019, chị Ng làm đơn gửi cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Diễn Châu và kiểm tra camera tại quán sửa xe “Hợp Ca” (xóm 2, xã DT) thì thấy một nam thanh niên không mặc áo vào nhà chị lấy xe máy điện.

Khong 19h ngày 01/4/2019, M và L đến gặp C tại nhà và nói “lo xoay tiền mà lấy xe cho mợ đi, chứ mợ biết rồi”. C trả lời “ừ, để tui xoay tiền chuộc trả cho họ”.

Ngày 02/4/2019, C xin tiền mẹ trả cho D, lấy xe máy điện trả cho chị Võ Thị Ng.

Tại phiên tòa, bị cáo Ngô Sỹ C khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Bị hại anh chị Võ Thị Ng có mặt: Không có yêu cầu gì.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Ngô Đình D có mặt: Không có yêu cầu gì.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố: Vào khoảng 02h 20 phút, ngày 31/3/2019, tại xóm 2, xã DT, huyện DC, tỉnh Nghệ An, Ngô Sỹ C có hành vi trộm cắp 01 (một) chiếc xe máy điện, màu đỏ, không có biển kiểm soát, trị giá 8.900.000đồng (tám triệu, chín trăm ngàn đồng) của chị Võ Thị Ng. Hành vi của Ngô Sỹ C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Về các vấn đề khác của vụ án:

Thủ tục định giá: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Diễn Châu yêu cầu định giá tài sản. Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân huyện Diễn Châu tiến hành định giá tài sản, kết luận: 01 (một) xe máy điện nhãn hiệu THBOSS plus, không biển kiểm soát, màu sơn đỏ, đen, số khung RL9YBEKUMJBR02255, trị giá 8.900.000đồng (tám triệu, chín trăm ngàn đồng). Quá trình điều tra bị cáo, bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận định giá tài sản.

Trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Võ Thị Ng đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về mặt dân sự.

- Bản cáo trạng số 95/CT-VKSDC ngày 19/6/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu truy tố bị cáo Ngô Sỹ C, về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Ngô Sỹ C từ 09-12 tháng tù. Áp dụng: Khoản 2 Điều 56 Bộ luật hình sự, tổng hợp với hình phạt 15 (mười lăm) tháng tù tại bản án số 132/2018/HSST, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung từ 24-27 tháng tù.

Hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Bị cáo không tranh luận gì về tội danh. Lời nói sau cùng: Xin giảm nhẹ hình phạt.

Bị hại chị Nga: Xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Diễn Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, Ngô Sỹ C khai nhận: Để có tiền tiêu và chơi game, lợi dụng lúc gia đình chị Ng đang ngủ, Cường đi bộ vào sân lấy 01 (một) xe máy điện màu đỏ đen, trị giá 8.900.000đồng (tám triệu, chín trăm ngàn đồng). Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án. Bị cáo nhận thức được tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, hành vi lén lút trộm cắp tài sản của người khác là xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của họ. Đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự. Phạm tội với lỗi cố ý. Theo quy định tại khoản 1 điều 173 của Bộ luật hình sự, hành vi chiếm đoạt tài sản trị giá 8.900.000 đồng (tám triệu, chín trăm ngàn đồng) của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu truy tố là đúng quy định pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Vụ án có tính chất ít nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của cá nhân, làm ảnh hưởng đến an toàn, trật tự công cộng, gây ra tâm lý, lo lắng trong cộng đồng dân cư. Bị cáo có nhân thân xấu, đã bị tòa án xét xử, nhưng không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Do đó, cần xử phạt bị cáo với mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo. Cách ly ra ngoài xã hội một thời gian, mới có đủ điều kiện để giáo dục, cải tạo bị cáo, đồng thời răn đe và phòng ngừa chung. Bị cáo bị xử phạt 15 (mười lăm) tháng tù tại Bản án số 132/2018/HSST, chưa chấp hành. Nên cần áp dụng khoản 2 Điều 56 Bộ luật hình sự để tổng hợp, buộc chấp hành chung.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hình phạt: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng, nhưng có nhân thân xấu, đã bị xét xử nhưng không lấy đó làm bản học răn đe bản thân mà tiếp tục phạm tội, thể hiện bị cáo là người khó cải tạo. Bản án số 132/2018/HSST ngày 14/11/2018, bị kháng cáo, có hiệu lực pháp luật vào ngày 25/4/2019 (Quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm số 38/2019/HSPT-QĐ) sau ngày bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” (ngày 31/3/2019), nên không được xem là tình tiết tăng nặng tái phạm. Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ tự nguyện trả lại xe cho bị hại, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, cần áp dụng các điềm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

[5] Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đồng đến 50.000.000đồng”. Xét bị cáo không có tài sản, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[6] Trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Võ Thị Ng đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì về mặt dân sự, nên miễn xét.

[7] Anh Ngô Đình D không biết tài sản do trộm cắp mà có nên không phạm tội.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩmtheo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Ngô Sỹ C 12 (mười hai) tháng tù. Về tội: Trộm cắp tài sản.

Áp dụng: Khoản 2 Điều 56 Bộ luật hình sự, tổng hợp với hình phạt 15 (mười lăm) tháng tù, về các tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và “Đánh bạc” tại bản án hình sự sơ thẩm số 132/2018/HSST ngày 14/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu. Buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung 27 (hai bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 24/4/2019), nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày (30/5/2018 đến ngày 23/7/2018) tại bản án số 132/2018/HSST.

Án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 buộc bị cáo Ngô Sỹ C phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt, có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 92/2019/HS-ST ngày 16/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:92/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Diễn Châu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về