TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY NAM, TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 92/2019/HN-ST NGÀY 08/10/2019 VỀ LY HÔN, CHIA TÀI SẢN CHUNG KHI LY HÔN
Trong ngày 08 tháng 10 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 130/2018/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 4 năm 2018 về việc “Xin ly hôn, chia tài sản chung khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 338/2019/QĐXX-ST ngày 24 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Huỳnh Văn Bé B, sinh năm 1975; Địa chỉ: ấp A, xã A, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre. (có mặt)
2. Bị đơn: Chị Lê Thị Th, sinh năm 1976; Địa chỉ: ấp T, xã T, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre. (có mặt)
Đại diện theo ủy quyền về phần tài sản chung ông Nguyễn Văn Ph, sinh: 1976. Trú tại khu phố x, thị trấn y, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre. (có mặt)
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1 Bà Huỳnh Thị Bé B, sinh năm 1967; Địa chỉ: ấp A, xã A, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre. (vắng mặt)
3.2 Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1975; Địa chỉ: ấp A, xã A, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre. (vắng mặt)
3.3 Anh Huỳnh Văn C, sinh năm 1977; Địa chỉ: ấp A, xã A, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre. (vắng mặt)
3.4 Bà Võ Thị Th, sinh năm 1953; Địa chỉ: ấp A, xã A, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre. (vắng mặt)
3.5 Bà Phạm Thị H, sinh năm 1943; Địa chỉ: ấp A, xã A, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 29/3/2018, bản khai, biên bản hòa giải cũng như các tài liệu chứng cứ cung cấp cho Tòa án và tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn anh Huỳnh Văn Bé B trình bày:
Anh và chị Lê Thị Th do mai mối và đi đến kết hôn vào ngày 15/4/1997, đăng ký kết hôn ngày 05/7/2005 tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre. Trong thời kỳ hôn nhân vợ chồng không có con chung. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là từ tháng 3/2018 chị Th bỏ về bên cha mẹ ruột ở ấp T, xã T và nói không chung sống với anh nữa. Hiện nay, anh xác định không còn tình cảm vợ chồng với chị Th nên yêu cầu:
Về hôn nhân: Xin ly hôn chị Lê Thị Th.
Về con chung: Không có.
Về tài sản chung: Không có.
Về nợ chung: Không có.
Tại bản khai, đơn phản tố, biên bản hòa giải cùng các tài liệu chứng cứ cung cấp cho Tòa án và tại phiên tòa hôm nay bị đơn chị Lê Thị Th trình bày:
Về điều kiện tiến tới hôn nhân, đăng ký kết hôn, quá trình chung sống, thời gian ly thân chị đồng ý như anh B trình bày. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm, nay anh B yêu cầu ly hôn chị cũng đồng ý ly hôn và rút lại yêu cầu anh B cấp dưỡng 2.000.000 đồng/tháng.
Về con chung: Không có.
Về nợ chung: Không có.
Về tài sản chung: Khi vợ chồng sống chung có mua một phần đất vào năm 2001, có diện tích khoảng 1.000m2 với giá 8.000.000 đồng của bà Võ Thị Th, sinh: 1953 trú tại ấp A, xã A, huyện Mỏ Cày Nam thuộc thửa đất số 285, tờ 01 tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện Mỏ Cày Nam nhưng chưa chuyển quyền sử dụng đất. Nay yêu cầu anh B hoàn trả 50% giá trị đất là 30.000.000 đồng.
Tại đơn yêu cầu độc lập và đơn rút yêu cầu người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Huỳnh Thị Bé B trình bày:
Vào ngày 02/7/2015 bà có cho vợ chồng B, Th mượn số tiền 20.000.000 đồng nhưng nay bà rút lại toàn bộ yêu cầu độc lập của mình.
Tại đơn yêu cầu độc lập và đơn rút yêu cầu anh Huỳnh Văn C trình bày:
Trong thời gian chị Th bệnh anh có cho vợ chồng B, Th mượn số tiền 8.000.000 đồng nhưng nay anh rút lại toàn bộ yêu cầu độc lập của mình
Tại đơn yêu cầu độc lập và đơn rút yêu cầu bà Nguyễn Thị L trình bày:
Vào ngày 02/7/2015 bà có cho vợ chồng B, Th mượn số tiền 15.000.000 đồng và ngày 20/6/2016 cho vợ chồng B, Th mượn tiếp số tiền 5.000.000 đồng nhưng nay bà rút lại toàn bộ yêu cầu độc lập của mình.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 21/9/2018, cũng như đom xin giải quyết vắng mặt bà Võ Thị Th trình bày:
Bà có đứng tên quyền sử dụng đất khoảng 2,4 công. Năm 2001 bà có bán cho bà Phạm Thị H phần đất khoảng 900m2 với giá 01 cây rưỡi năm phân vàng thị trường, hai bên có làm giấy tay và chồng vàng đầy đủ, mỗi bên giữ một bản nhưng giấy của bà đã làm mất. Phần đất còn lại bà cũng đã bán cho người khác và cho con của bà nhưng đến nay chưa chuyển quyền sử dụng do bên mua chưa yêu cầu tách quyền sử dụng, bà khẳng định khi mua bán chỉ có bà và anh B thực hiện việc giao nhận vàng và làm giấy tờ, không có mặt chị Th.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 25/01/2019, cũng như đom xin giải quyết vắng mặt bà Phạm Thị H trình bày:
Năm 2001 bà có mua một phần đất khoảng 900m2 của bà Võ Thị Th với giá 01 cây rưỡi năm phân vàng, các bên có làm biên nhận. Phần đất này bà để con út là Huỳnh Văn Bé B trồng cây, sản xuất kiếm thêm thu nhập. Hiện đến nay vẫn chưa chuyển quyền sử dụng do bận công việc gia đình và cũng chưa có tiền để tách sổ, trên phần đất này vợ chồng B và Th có trồng cỏ nuôi bò. Ngoài ra không còn công sức đóng góp gì, nay bà không đồng ý yêu cầu chia giá trị quyền sử dụng đất của chị Th. Đề nghị Tòa án công nhận phần đất này là của bà.
- Đại diện theo ủy quyền của bị đơn về phần tài sản chung anh Nguyễn Văn Ph trình bày:
Phần đất thửa 337, tờ 8, diện tích khoảng 01 công tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện Mỏ Cày Nam là do vợ chồng chị Th mua của bà Võ Thị Th vào năm 2001 và anh B cũng thừa nhận đây là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của anh chị, nên chị Th yêu cầu anh B hoàn trả 50% giá trị đất 30.000.000 đồng là phù họp.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỏ Cày Nam phát biểu ý kiến:
Theo đơn yêu cầu phản tố của chị Th chia giá trị quyền sử dụng đất đã mua của bà Võ Thị Th và bà Phạm Thị H có yêu cầu độc lập công nhận phần đất này cho bà. Tuy nhiên, phần đất mua trên chưa tách quyền sử dụng và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Th là cấp cho hộ nên đề nghị tạm dừng phiên tòa để lấy ý kiến của những thành viên trong hộ bà Th.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào lời trình bày của các đương sự và kết quả tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỏ Cày Nam trình bày ý kiến, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Căn cứ vào đơn khởi kiện ngày 29/3/2018, đơn phản tố thì xác định vụ án có quan hệ tranh chấp là “Ly hôn, chia tài sản chung khi ly hôn”, Quan hệ pháp luật tranh chấp nêu trên được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam.
Chị Lê Thị Th có nơi cư trú tại xã T, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam thụ lý đúng thẩm quyền.
[2] Về nội dung tranh chấp:
Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn anh Huỳnh Văn Bé B vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với chị Lê Thị Th và không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung, con chung và nợ chung. Chị Th vẫn giữ nguyên một phần yêu cầu phản tố. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà B, bà L, anh C có đơn rút yêu cầu độc lập.
Hội đồng xét xử thấy rằng:
2.1. Về hôn nhân: Anh Huỳnh Văn Bé B và chị Lê Thị Th qua mai mối và tự nguyện tiến tới hôn nhân vào 05/7/2005, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre và được cấp giấy chứng nhận kết hôn. Do đó hôn nhân của anh B và chị Th đã hội đủ các quy định về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.
Sau khi kết hôn anh B và chị Th từ những mâu thuẫn trong cuộc sống mà anh chị đã không tìm cách khắc phục, từ đó anh chị sống ly thân với nhau từ đầu năm 2018 cho đến nay. Quá trình sống ly thân anh chị không có thiện chí bàn bạc, hàn gắn để vợ chồng đoàn tụ. Xét thấy rằng mâu thuẫn giữa anh B và chị Th đã đến mức trầm trọng và cả hai anh chị không mong muốn tiếp tục xây dựng gia đình hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, quá trình Tòa án giải quyết và tại phiên tòa hôm nay anh B và chị Th thỏa thuận thuận tình ly hôn nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh B là phù hợp luật định. Về yêu cầu cấp dưỡng tại phiên tòa chị Th rút yêu cầu anh B cấp dưỡng 2.000.000 đồng/tháng nên đình chỉ giải quyết.
2.2. Về con chung: Không có nên không xem xét.
2.3. Về tài sản chung:
Chị Th cho rằng vào năm 2001 chị và anh B có mua một phần đất có diện tích khoảng 1.000m2 với giá 8.000.000 đồng của bà Võ Thị Th thuộc thửa đất số 337, tờ 08 tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện Mỏ Cày Nam nhưng chưa chuyển quyền sử dụng đất. Nay, yêu cầu anh B hoàn trả 50% giá trị đất là 30.000.000 đồng.
Xét thấy, căn cứ vào giấy biên nhận giao nhận vàng, lời trình bày giữa các bên. Anh B và chị Th thống nhất giấy biên nhận giao vàng do chị Th viết và bên bán bà Võ Thị Th, bên mua anh Huỳnh Văn Bé B. Sau khi giao đất phần đất nêu trên anh B là người trực tiếp quản lý sử dụng và sử dụng hoa lợi trên đất phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của gia đình. Tại phiên tòa, chị Th và anh B cũng xác định trong thời kỳ hôn nhân chị Th làm nghề may, anh B làm thợ mộc nên có đủ khả năng mua phần đất trên với giá trị 01 cây rưỡi năm phân vàng tương đương 8.000.000 đồng. Tại các bản tự khai ngày 14/6/2018 và 18/4/2018 anh B cũng thừa nhận trong thời gian hai vợ chồng sống chung có mua một thửa đất của bà Võ Thị Th là 900m và đồng ý chia đôi. Chị Th và anh B đều thống nhất thửa đất này có tổng giá trị là 60.000.000 đồng, nên chị Th yêu cầu anh B chia 50% giá trị đất là 30.000.000 đồng là có cơ sở.
2.4. Về nợ chung: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà B, bà L, anh C đều có đơn rút yêu cầu anh B, chị Th trả nợ chung nên đình chỉ giải quyết. Ngân hàng chính sách xã hội huyện Mỏ Cày Nam không có yêu cầu nên không xem xét.
Đối với đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỏ Cày Nam tạm dừng phiên tòa để lấy ý kiến của những thành viên trong hộ bà Th. Hội đồng xét xử thấy rằng: Thửa đất nêu trên anh B và chị Th cho rằng là tài sản chung của anh chị được mua bằng giá trị đối với bà Võ Thị Th, nay chị Th đồng ý ly hôn và yêu cầu anh B hoàn lại 50% bằng giá trị là có cơ sở. Bởi lẽ, sau khi chị Th được nhận bằng giá trị thửa đất nêu trên sẽ do anh B được toàn quyền quản lý sử dụng nếu có xảy ra tranh chấp với những thành viên trong hộ bà Th anh B có thể khởi kiện để yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng.
[3] Về án phí và chi phí đo đạc, thẩm định giá tài sản:
- Anh Huỳnh Văn Bé B phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.
- Chị Th và anh B có nghĩa vụ chịu án phí tương ứng với phần giá trị tài sản được nhận là: 30.000.000 đồng x 5% = 1.500.000đ.
- Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 425.000 đồng, chị Th có nghĩa vụ nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Khoản 1 Điều 28, điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 217, 218, 219, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
1. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Huỳnh Văn Bé B; chấp nhận yêu cầu chia tài sản chung của chị Lê Thị Th. Đình chỉ yêu cầu độc lập của bà Huỳnh Thị Bé B, Nguyễn Thị L, Huỳnh Văn C đối với anh Huỳnh Văn Bé B và chị Lê Thị Th.
Cụ thể tuyên:
1.1. Về hôn nhân: Anh Huỳnh Văn Bé B được ly hôn với chị Lê Thị Th. Anh Huỳnh Văn Bé B không phải cấp dưỡng cho chị Lê Thị Th.
1.2. Về con chung: Không có nên không xem xét.
1.3. Về tài sản chung:
Buộc anh Huỳnh Văn Bé B có nghĩa vụ hoàn trả cho chị Lê Thị Th 50% giá trị đất là 30.000.000 (Ba mươi triệu) đồng giá trị quyền sử dụng đất thửa 337, tờ 08 tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre.
1.4. Về nợ chung: Không có yêu cầu nên đình chỉ giải quyết.
1.5. Về án phí:
1.5.1. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn) đồng anh Huỳnh Văn Bé B phải chịu và được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 0014884 ngày 02 tháng 4 năm 2018.
1.5.2. Án phí dân sụ sơ thẩm có giá ngạch:
Chị Lê Thị Th có nghĩa vụ chịu án phí đối với phần tài sản yêu cầu được chấp nhận là 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn) đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 1.500.000 đồng theo biên lai thu số 0020847 ngày 15/10/2018 (đã nộp đủ).
Anh Huỳnh Văn Bé B có nghĩa vụ chịu án phí là 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn) đồng nhung được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0016510 ngày 14 tháng 5 năm 2018. Anh B còn phải nộp tiếp với số tiền 1.200.000 (Một triệu hai trăm nghìn) đồng.
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre hoàn lại cho bà Huỳnh Thị Bé B số tiền 500.000 (Năm trăm nghìn) đồng theo biên lai số 0016562 ngày 04 tháng 6 năm 2018; hoàn lại cho bà Nguyễn Thị L số tiền 500.000 (Năm trăm nghìn) đồng theo biên lai số 0016563 ngày 04 tháng 6 năm 2018; hoàn lại cho anh Huỳnh Văn C số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai số 001654 ngày 04 tháng 6 năm 2018.
1.5.3. Về chi phí đo đạc, thẩm định, định giá tài sản:
Chi phí đo đạc, xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản tổng cộng là 425.000 (Bốn trăm hai mươi lăm nghìn) đồng, chị Th có nghĩa vụ nộp và đã nộp xong.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2014.
Các đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án, các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 92/2019/HN-ST ngày 08/10/2019 về ly hôn, chia tài sản chung khi ly hôn
Số hiệu: | 92/2019/HN-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Nam - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 08/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về