TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KH
BẢN ÁN 92/2018/HSPT NGÀY 15/08/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 15 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh KH xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 101/2018/HSPT ngày 15 tháng 6 năm 2018 đối với bị cáo Bùi Văn H, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 104/2018/HSST ngày 02/05/2018 của Tòa án nhân dân thành phố NT, tỉnh KH.
- Bị cáo có kháng cáo:
BÙI VĂN H - Sinh năm 1994 tại KH
Nơi cư trú: 35/9 LHP, phường PH, thành phố NT, tỉnh KH.
Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam
Con ông: Bùi Văn H – sinh năm 1964 và bà: Phạm Thị U – sinh năm 1973
Tiền án, tiền sự: Không
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do quen biết từ trước, Bùi Văn H có sống cùng anh Piskunov V tại phòng 504, căn hộ HK, tòa nhà STH, Khu đô thị HQ2, phường PH, thành phố NT. Vì cần tiền tiêu xài cá nhân, H nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của anh Piskunov V. Ngày 18/8/2017, lợi dụng lúc anh V không có mặt tại căn hộ, H đã lấy trộm một máy tính xách tay Lenovo màu đen, 1 máy nghe nhạc Ipod hiệu Apple màu xanh nước biển rồi trốn khỏi căn hộ trên. Sau đó, H lên mạng rao bán số tài sản vừa trộm được. Ngày 20/8/2018, có một người đàn ông (không xác định được nhân thân, lai lịch) đã mua số tài sản trộm cắp trên với giá 3.100.000 đồng. số tiền có được do bán tài sản trộm cắp, H đã tiêu xài cá nhân và mua 3 quyển sách hết 2.495.000 đồng, số tiền còn lại 605.000 dồng H giữ trong ví tiền của mình. Khoảng 15 giờ ngày 05/9/2017, anh V đang đi trên đường NTN đoạn giao với đường BĐ thì thấy H đang đi bộ một mình nên đã cùng người dân bắt giữ H giao cho Công an phường TL, NT.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 291/TCKH ngày 18/9/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố NT kết luận: 01 máy tính xách tay hiệu Lenovo màu đen giá trị 4.796.000 đồng, 01 Ipod hiệu Apple màu xanh giá 477.000 đồng. Tổng giá trị tài sản mà H trộm cắp là 5.273.000 đồng.
Bản án hình sự sơ thẩm số 104/2018/HSST ngày 02/5/2018 của Tòa án nhân dân thành phố NT, tỉnh KH đã quyết định: Căn cứ khoản 1 điều 138, điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt Bùi Văn H 9 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
Ngày 15/5/2018, bị cáo Bùi Văn H có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bi cáo Bùi Văn H giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh KH đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo, áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm g khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 đối với bị cáo và sửa bản án sơ thẩm, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Tại lời nói sau cùng, bị cáo Bùi Văn H xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của kháng cáo:
Đơn kháng cáo được bị cáo Bùi Văn H nộp trực tiếp cho Tòa án nhân dân thành phố NT vào ngày 15/5/2018. Theo quy định tại Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đơn kháng cáo của bị cáo là hợp pháp, do đó, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo của bị cáo theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về trách nhiệm hình sự của bị cáo:
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Bùi Văn H thừa nhận toàn bộ hành vi bị cáo đã thực hiện như nội dung bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố NT, tỉnh KH. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Có đủ cơ sở để xác định rằng, vào ngày 18/8/2017, bị cáo Bùi Văn H đã có hành vi lén lút chiếm đoạt số tài sản là một máy tính xách tay hiệu Lenovo màu đen, một máy nghe nhạc Ipod màu xanh nước biển có tổng trị giá 5.273.000 đồng của anh Piskunov V. Hành vi của bị cáo đủ yếu tốcấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999.
[3] Về nội dung kháng cáo của bị cáo:
Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự ở địa phương. Khi xem xét quyết định mức hình phạt đối với bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 (bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng) và điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 (bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải) là phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, hành vi phạm tội của bị cáo gây thiệt hại không lớn nhưng cấp sơ thẩm không áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm g khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự là có thiếu sót, nên cấp phúc thẩm áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ tại điểm g khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, cần sửa bản án sơ thẩm và giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
[4] Về án phí: Bị cáo Bùi Văn H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời gian kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
1/ Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Văn H, sửa bản án sơ thẩm.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 138; điểm g, h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999;
Xử phạt bị cáo BÙI VĂN H 6 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
2/ Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội
Bị cáo Bùi Văn H không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
3/ Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án 92/2018/HSPT ngày 15/08/2018 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 92/2018/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/08/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về