TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 92/2018/HNGĐ-ST NGÀY 29/08/2018 VỀ LY HÔN
Ngày 29 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 131/2018/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 8 năm 2018 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2780/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 8 năm 2018 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị H; nơi cư trú: Thôn A, xã B, huyện C, thành phố Hải Phòng; có mặt.
- Bị đơn: Anh W; nơi cư trú: Nhà số 31, đoạn 2, đường D, cụm 19, phường E, khu F, thành phố Đài Bắc, Đài Loan; vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là chị Hoàng Thị H trình bày: Đầu năm 2017 qua giới thiệu chị đã quen biết anh W, cư trú tại Đài Loan. Sau thời gian tìm hiểu, anh chị tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân huyện C, thành phố Hải Phòng ngày 05 tháng 5 năm 2017. Sau khi kết hôn anh W và chị thống nhất về việc vợ chồng sẽ sinh sống tại Đài Loan và anh chị đã hai lần tới phỏng vấn tại Văn phòng Kinh tế-Văn hóa Đài Bắc tại Hà Nội để làm thủ tục bảo lãnh cho chị sang Đài Loan cùng đoàn tụ vợ chồng nhưng đều bị từ chối. Sau đó anh W, trở về Đài Loan, còn chị vẫn ở Việt Nam. Từ đó cho đến nay chị và anh W không có thời gian nào chung sống với nhau nữa. Do thời gian tìm hiểu và chung sống quá ngắn, mặt khác do bất đồng về ngôn ngữ và khác nhau về phong tục, tập quán nên tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt. Từ khi anh W về Đài Loan đến nay, vợ chồng không ai quan tâm và trách nhiệm đến ai nữa. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn và hai người không có cơ hội đoàn tụ được, nên để đảm bảo ổn định cuộc sống riêng cho mình, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị và anh W được ly hôn.
Về con chung và tài sản chung: Chị Hoàng Thị H xác định chị và anh W không có con chung và tài sản chung.
Trong bản tự khai và đơn gửi về Tòa án, anh W trình bày: Anh thống nhất với lời khai của chị H về việc kết hôn và thời gian chung sống giữa anh và chị H. Anh W xác định do thời gian tìm hiểu và đi đến kết hôn quá ngắn hơn nữa do bất đồng ngôn ngữ nên anh và chị H chưa hiểu hết tính cách của nhau do vậy sau khi kết hôn mới thấy giữa hai vợ chồng không có sự hòa hợp về tính cách. Mặt khác, qua hai lần phỏng vấn không đạt kết quả, nên anh không thể bảo lãnh cho chị H sang Đài Loan để đoàn tụ vợ chồng được. Vì vậy, anh W cũng đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Hoàng Thị H.
Về con chung, tài sản chung: Anh W xác định anh và chị Hoàng Thị H không có con chung và tài sản chung.
Tại phiên tòa, chị Hoàng Thị H có mặt vẫn giữ nguyên quan điểm đề nghị Tòa án giải quyết cho chị và anh W được ly hôn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Chị Hoàng Thị H và anh W cùng có đơn đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng giải quyết việc ly hôn của anh chị. Theo quy định tại khoản 3 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 37, điểm b khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.
[2] Bị đơn hiện đang cư trú tại Đài Loan, vắng mặt tại phiên toà nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị H và anh W kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân huyện C, thành phố Hải Phòng ngày 05 tháng 5 năm 2017. Theo quy định tại Điều 8; Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Xét thấy quan hệ hôn nhân giữa chị Hoàng Thị H và anh W mục đích hôn nhân không đạt được, không có khả năng đoàn tụ cần chấp nhận yêu cầu của chị Hoàng Thị H và anh W, xử cho chị Hoàng Thị H và anh W được ly hôn theo quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
[4] Về con chung và tài sản chung: Chị Hoàng Thị H và anh W khai thống nhất không có con chung, tài sản chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề giải quyết.
[5] Về án phí: Chị H phải nộp 300.000đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.
[6] Về quyền kháng cáo: Chị Hoàng Thị H và anh W được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 51; Điều 56; Điều 57; Điều 123; Điều 127 Luật Hôn nhân và Gia đình;
Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm b khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 207; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 273; Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị H và anh W được ly hôn.
2. Về con chung và tài sản chung: Chị Hoàng Thị H và anh W khai thống nhất không có con chung, tài sản chung và không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề giải quyết.
3. Về án phí: Chị Hoàng Thị H phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm , nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo Biên lai số 0010832 ngày 02 tháng 8 năm 2018 tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng. Chị H đã nôp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo:
- Chị Hoàng Thị H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
- Anh W được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật./.
Bản án 92/2018/HNGĐ-ST ngày 29/08/2018 về ly hôn
Số hiệu: | 92/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/08/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về