Bản án 921/2020/HNGĐ-ST ngày 22/07/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 921/2020/HNGĐ-ST NGÀY 22/07/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

 Trong các ngày 15 và 22 tháng 7 năm 2020 tại Trụ sở của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai Vụ án thụ lý số: 1927/2019/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 10 năm 2019 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 130/2020/QĐST- HNGĐ ngày 17 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Hương G, sinh năm 1970; địa chỉ: đường T, Phường I, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; tạm trú: đường H, Phường I, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)

 Bị đơn: Ông Đỗ Văn S, sinh năm 1968; địa chỉ: đường L, Phường M, Quận O, Thành phố Hồ Chí Minh; tạm trú: đường H, Phường I, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Trong đơn khởi kiện ngày 26/9/2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà Nguyễn Hương G trình bày:

Bà và ông Đỗ Văn S tự nguyện chung sống t năm 1991, có tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn. Giấy chứng nhận kết hôn số xx quyển số xx/xx do Ủy ban nhân dân Phường X, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày xx/xx/19xx. Vợ chồng chung sống có hai con chung tên là Đỗ Quỳnh N, sinh năm 1992 và Đỗ Anh D, sinh năm 2000.

Mâu thuẩn vợ chồng phát sinh năm 2005, nguyên nhân là do vợ chồng không cùng quan điểm sống. Mặt khác, ông S không tôn trọng vợ, không có trách nhiệm với gia đình, vợ con. Khi tranh cãi thì ông S có những lời lẽ không hay đối với vợ. Trong sinh hoạt gia đình, vợ chồng không còn ăn cơm chung với nhau, bà và các con ăn riêng, ông S ăn riêng. Bà nhận thấy, vợ chồng không còn tình cảm và không còn quan tâm đến nhau, cuộc sống chung không có hạnh phúc. T năm 2017, bà đã nhiều lần nộp đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn nhưng do ông S gây khó khăn trong việc xác định nơi cư trú của ông S. Tháng 3/2019, bà nộp đơn ly hôn tại Tòa án nhân dân Quận O, Thành phố Hồ Chí Minh (là nơi ông S đăng ký hộ khẩu thường trú) nhưng ông S đề nghị chuyển hồ sơ về Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh (nơi ông đang tạm trú cùng vợ con) để giải quyết. Sau đó, tháng 9/2019 bà tiếp tục nộp đơn yêu cầu giải quyết ly hôn tại Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh và xin rút đơn ly hôn tại Tòa án nhân dân Quận O và Tòa án nhân dân Quận O đã ban hành quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 1126/2019/QĐST-HNGĐ ngày 21/10/2019. Bà xác định vợ chồng không thể tiếp tục chung sống và yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn để bà sớm ổn định cuộc sống cùng các con.

Về con chung: Đỗ Quỳnh N, sinh năm 1992 và Đỗ Anh D, sinh năm 2000 đã thành niên, muốn ở với cha hay mẹ tùy ý.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

2. Tại bản tự khai ngày 04/12/2019 và các biên bản hòa giải ngày 04/12/2019, ngày 17/6/2020, ông Đỗ Văn S trình bày như sau:

Ông xác nhận vợ chồng chung sống, đăng ký kết hôn và có hai con chung là Đỗ Quỳnh N, sinh năm 1992 và Đỗ Anh D, sinh năm 2000 đúng như bà G trình bày. Ông và bà G không có con riêng, con nuôi nào khác.

Ông thừa nhận, quá trình chung sống thì vợ chồng có phát sinh mâu thuẩn. Tuy nhiên, ông cho rằng mâu thuẩn không đến mức phải ly hôn vì ông vẫn còn thương vợ. Nguyên nhân mâu thuẩn là do bà G dành thời gian sử dụng điện thoại và internet quá nhiều nên bị ảnh hưởng đến tâm lý, nếu vượt qua giai đoạn này thì vợ chồng sẽ ổn định cuộc sống. Ông đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng đoàn tụ.

Về con chung: Đỗ Quỳnh N, sinh năm 1992 và Đỗ Anh D, sinh năm 2000 đã thành niên.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Ngày 18/6/2020, ông S có đơn yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là nhà đất tại địa chỉ đường H, Phường I, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Tại “Biên bản ghi nhận ý kiến” ngày 17/6/2020, con chung của bà Nguyễn Hương G và ông Đỗ Văn S là bà Đỗ Quỳnh N trình bày:

Cuộc sống hôn nhân của ba mẹ bà không thực sự hạnh phúc. T nhỏ, bà đã chứng kiến ba mẹ thường xuyên gây gỗ về nhiều nguyên nhân khác nhau. Khi thì do ba đòi bán nhà để làm ăn, khi thì do bất đồng quan điểm trong việc sinh hoạt gia đình. Mâu thuẩn giữa ba mẹ bà ngày càng nhiều, thậm chí không còn nói chuyện với nhau và gia đình không còn ăn cơm chung t năm 2005 đến nay. Cuộc sống của mẹ bà rất khổ sở, vừa lo kinh tế gia đình, vừa lo cho các con và giữ mối quan hệ nội ngoại hai bên còn ba thì không có sự gần gũi và cũng ít quan tâm đến con. Những năm gần đây, không khí trong gia đình rất nặng nề, ba mẹ bà không còn quan tâm đến nhau. Bà mong muốn Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn để mẹ bà sớm ổn định cuộc sống.

Tại phiên tòa, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; bị đơn không đồng ý đối với yêu cầu của nguyên đơn và yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng là nhà và đất tại địa chỉ số đường H, Phường I, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật như sau:

- Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thẩm phán, Hội đồng xét xử (HĐXX), người tiến hành tố tụng, nguyên đơn đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về tố tụng, riêng bị đơn chưa thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS). Việc tống đạt các văn bản tố tụng cho các đương sự đều đã được thực hiện đúng quy định. Ngoài ra, Thẩm phán cần đảm bảo thời hạn chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 203 của BLTTDS.

- Về nội dung: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Riêng về yêu cầu chia tài sản chung của bị đơn thì đề nghị HĐXX không xem xét vì bị đơn có đơn yêu cầu chia tài sản chung sau khi kết thúc Phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; sau khi nghe đương sự có mặt tại phiên tòa trình bày, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định:

[1] Tại phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, bị đơn ông Đỗ Văn S yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng là nhà và đất tại địa chỉ đường H, Phường I, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh theo “Đơn yêu cầu” ngày 18/6/2020.

Ngày 17/6/2020, Tòa án đã tiến hành phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Tại phiên họp, ông S có mặt sau đó báo bận công việc và bỏ về, không ký tên vào các biên bản.

Cùng ngày 17/6/2020, Tòa án đã ban hành Quyết định số 130/2020/QĐXXST- HNGĐ đưa ra xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 1927/2019/TLST-HNGĐ ngày 09/10/2019 về “Tranh chấp về ly hôn” giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Hương G và bị đơn là ông Đỗ Văn S.

Ngày 18/6/2020, ông S có lập bản tự khai xác nhận bỏ về tại Phiên họp và hòa giải ngày 17/6/2020 và có “Đơn yêu cầu” yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đối với tài sản là nhà và đất tại địa chỉ đường H, Phường I, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Tại khoản 3 Điều 200 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định: “3. Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.” Như vậy, ông S đã đưa ra yêu cầu chia tài sản chung sau thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Do đó HĐXX không xem xét yêu cầu về chia tài sản chung của ông S. Tuy nhiên, ông S có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp chia tài sản chung của vợ chồng bằng một vụ án khác theo quy định của pháp luật.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn bà Nguyễn Hương G khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Đỗ Văn S hiện tạm trú tại địa chỉ: đường H, Phường I, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. Quan hệ tranh chấp giữa các bên được xác định là “Tranh chấp về ly hôn”, đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Về yêu cầu của nguyên đơn:

Bà G yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông S.

Bà G và ông S kết hôn hợp pháp theo Giấy chứng nhận kết hôn số xx quyển số xx/xx do Ủy ban nhân dân Phường X, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày xx/xx/19xx. Căn cứ vào lời khai của bà G và ông S tại bản tự khai và các biên bản hòa giải ngày 04/12/2019, 17/6/2020; đều xác nhận vợ chồng có mâu thuẩn, bà G vẫn giữ ý kiến xuyên suốt là yêu cầu được ly hôn với ông S.

Ông S không đồng ý ly hôn và đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng đoàn tụ. Ông S th a nhận vợ chồng có phát sinh mâu thuẩn và xác nhận bà G đã nhiều lần nộp đơn ly hôn nhưng cho rằng mâu thuẩn vợ chồng chưa đến mức trầm trọng để ly hôn.

Nhận thấy, quá trình chung sống giữa bà G và ông S đã xảy ra nhiều mâu thuẩn và thực tế mặc dù ở chung nhà nhưng cả hai đã sống ly thân t năm 2005, gia đình không còn duy trì bữa cơm chung, vợ chồng không quan tâm đến nhau. Tòa án đã tạo điều kiện về thời gian để vợ chồng hòa giải nhưng bản thân ông S không có thiện chí khi Tòa án tiến hành hòa giải tại Tòa, không có sự quan tâm đến tâm tư, tình cảm của bà G và cũng không nỗ lực thay đổi cách suy nghĩ cũng như cách sống để xây dựng mối quan hệ gia đình hòa thuận.

Mặt khác, con gái chung của bà G và ông S cũng xác nhận mâu thuẩn giữa cha mẹ đã nhiều năm và ngày càng trầm trọng, bà N cũng mong muốn Tòa án giải quyết ly hôn cho cha mẹ.

Như vậy, tình trạng mâu thuẩn của bà G và ông S đã trầm trọng, cuộc sống chung không hạnh phúc, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu của bà G là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại Điều 51 và Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

T những phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà G đối với ông S.

Về con chung: Đỗ Quỳnh N, sinh năm 1992 và Đỗ Anh D, sinh năm 2000; tất cả đã thành niên nên không giải quyết về người trực tiếp nuôi con.

Về tài sản chung: HĐXX không xem xét giải quyết. Về nợ chung: Bà G và ông S khai không có.

2 Về án phí:

Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng).

Ý kiến của Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay về nội dung là có cơ sở pháp luật, nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 3 Điều 200, Điều 227, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 19, 51 và 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH16 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Hương G.

a) Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Hương G được ly hôn với ông Đỗ Văn S.

b) Về con chung: Đỗ Quỳnh N, sinh năm 1992 và Đỗ Anh D, sinh năm 2000; tất cả đã thành niên nên Hội đồng xét xử không giải quyết về người trực tiếp nuôi con.

c) Về tài sản chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết yêu cầu về chia tài sản chung của ông Đỗ Văn S. Các bên có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung bằng một vụ án khác theo quy định của pháp luật.

d) Về nợ chung: Bà G và ông S khai không có.

2. Về án phí: Bà Nguyễn Hương G chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được tr vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2018/0021xxx ngày 08/10/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà G đã nộp đủ án phí.

3. Bà Nguyễn Hương G và ông Đỗ Văn S được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể t ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 921/2020/HNGĐ-ST ngày 22/07/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:921/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về