Bản án 91/2021/HC-PT ngày 21/01/2021 về khởi kiện hành vi hành chính và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất  

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 91/2021/HC-PT NGÀY 21/01/2021 VỀ KHỞI KIỆN HÀNH VI HÀNH CHÍNH VÀ YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Vào ngày 21 tháng 01 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 23/2020/TLPT-HC ngày 12/10/2020, về việc “Khởi kiện hành vi hành chính và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

Do bản án hành chính sơ thẩm số 07/2020/HC-ST ngày 12/06-2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 573/2021/QĐ-PT ngày 08 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:

* Người khởi kiện: Bà Trịnh Thị Thúy H – sinh năm 1948; Địa chỉ: Thôn L, xã X, huyện Đ, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt

* Người bị kiện:

- Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Phú Yên. Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Ngô Quang P – Chức vụ: Phó Giám đốc. (Theo văn bản uỷ quyền ngày 19/01/2021). Có mặt.

- Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Phú Yên. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Ủy ban nhân dân xã X, huyện Đ, tỉnh Phú Yên.

Có đơn xin xét xử vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Vợ chồng ông Lê H K – sinh năm 1943, bà Lưu Thị B – sinh năm 1944; Địa chỉ: Thôn L, xã X, huyện Đ, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt Người đại diện theo ủy quyền của ông K, bà B: anh Lê Hùng V – sinh năm 1975; Địa chỉ: Thôn L, xã X, huyện Đ, tỉnh Phú Yên. Có mặt Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ông K, bà B: Bà Nguyễn Thị Kiều D, luật sư Văn phòng luật sư V thuộc Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh; Địa chỉ:, thành phố Đà Nẵng, có mặt - Vợ chồng anh Lê Hùng V – sinh năm 1975, chị Đỗ Thị Hoa L – sinh năm 1983; Địa chỉ: Thôn L, xã X, huyện Đ, tỉnh Phú Yên. Anh V có mặt, chị L vắng mặt.

Người kháng cáo: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê H K, bà Lưu Thị B, anh Lê Hùng V, chị Đỗ Thị Hoa L.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo đơn khởi kiện, các lời khai có tại hồ sơ vụ án bà Trịnh Thị Thúy H trình bày:

Năm 1975 bà khai hoang diện tích đất khoảng 1.000m2 (đo đạc hiện trạng là 868,9m2 tại BL 163), canh tác trồng hoa màu; năm 1989 thì cho ông Trần Tú U thuê đến năm 1994. Sau đó, bà H tiếp tục canh tác cho đến nay, hiện trên phần đất này bà H đang trồng cây keo.

Năm 2017, bà H với gia đình ông K xảy ra tranh chấp quyền sử dụng đất, trong quá trình hòa giải tại UBND xã thì bà H mới biết diện tích đất bà H đang canh tác đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng (GCN QSD) đất cho ông K vào năm 2006.

Ngày 23/6/2017 UBND xã X tiến hành hòa giải, các bên thống nhất cắm mốc trụ bê tông làm ranh giới trên thực địa, có lập biên bản cắm mốc, có chữ ký của hai bên tranh chấp.

Sau khi cắm mốc ranh giới thì hai bên tiếp tục xảy ra tranh chấp, ông K không giao GCN QSD đất để điều chỉnh ranh giới theo hiện trạng đã cắm mốc mà tặng cho vợ chồng anh V thửa đất tranh chấp nên bà H có các đơn khiếu nại (các ngày 23/3/2018, 22/5/2018, 04/9/2018, 18/10/2018) gửi đến UBND xã X và UBND huyện Đ nhưng không được giải quyết.

Nay bà H khởi kiện yêu cầu Tòa tuyên bố hành vi chứng thực hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông K, bà B với vợ chồng anh V, chị L là trái pháp luật; hủy GCN QSD đất do UBND huyện Đ đã cấp cho ông Lê H K, GCN QSD đất do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Phú Yên đã cấp cho vợ chồng anh Lê Hùng V, chị Đỗ Thị Hoa L và buộc UBND huyện Đ cấp GCN QSD đất cho bà H theo quy định pháp luật.

2. Theo các tài liệu có tại hồ sơ vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm đại diện Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Phú Yên trình bày:

Hồ sơ cấp GCN QSD đất không có đơn khiếu nại, tranh chấp của bà H và UBND xã X đã xác nhận đất không tranh chấp, đủ điều kiện thực hiện việc tặng cho và chứng thực hợp đồng giữa vợ chồng ông K với vợ chồng anh V. Do đó, Sở Tài nguyên và Môi trường đã cấp GCN QSD đất số CI 135311 ngày 30/01/2018 cho vợ chồng anh V, chị L thửa đất số 1017, tờ bản đồ số 89, diện tích 2.257m2, địa chỉ thôn L, xã X, huyện Đ, tỉnh Phú Yên.

Tuy nhiên, sau khi cấp GCN QSD đất thì bà H có đơn tranh chấp, Sở Tài nguyên và Môi trường tiến hành làm việc với UBND xã, UBND huyện thì kết quả GCN QSD đất cấp lần đầu cho ông K có sai sót, cấp chồng lên phần đất thuộc quyền sử dụng của bà H. Mặt khác, UBND xã đã thừa nhận việc chứng thực hợp đồng tặng cho là trái pháp luật, vì đất đang tranh chấp và các bên đã thoả thuận phân chia ranh giới.

Năm 2006 tiến hành cấp GCN QSD đất theo chương trình đa dạng hóa nông thôn, cấp số lượng lớn GCN QSD đất trên địa bàn toàn xã nên có thể có sai sót.

3. Theo các tài liệu có tại hồ sơ vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm đại diện UBND huyện Đ trình bày:

Ngày 25/9/2006 UBND huyện Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AH 572202 đứng tên ông Lê H K, thửa đất số 1017, tờ bản đồ số 89, diện tích 2257m2, loại đất trồng cây hàng năm khác, địa chỉ: Đất Nghỉ, xã X, huyện Đ, tỉnh Phú Yên.

Việc đo đạc bản đồ địa chính, cấp GCN QSD đất đứng tên ông Lê H K từ năm 2006, đến năm 2017 bà H mới phát sinh tranh chấp, quá trình hòa giải không có chứng cứ rõ ràng để xác định GCN QSD đất cấp cho ông K là sai nên UBND huyện không có cơ sở thu hồi GCN QSD đất.

Trường hợp GCN QSD đất được cấp sai thì đề nghị Toà huỷ GCN để UBND xã, huyện xem xét cấp lại GCN QSD đất theo đúng pháp luật. Sau này quy chủ cấp GCN QSD đất cho ai, diện tích bao nhiêu, vị trí như thế nào thì UBND xã, huyện sẽ lập hội đồng xem xét.

Trong khi tranh chấp QSD đất giữa các bên chưa được giải quyết nhưng UBND xã X chứng thực hợp đồng tặng cho QSD đất là trái quy định pháp luật.

Đã nhiều lần hoà giải để các bên thống nhất phân chia diện tích đất nhưng không thành, do đó UBND huyện đề nghị Tòa giải quyết theo quy định pháp luật.

4. Theo tài liệu có tại hồ sơ vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm đại diện UBND xã X trình bày:

Năm 2006 thực hiện đo đạc bản đồ địa chính toàn xã theo dự án đa dạng hóa nông thôn, khi đó ai đăng ký kê khai thì được cấp GCN QSD đất, ông K kê khai thửa đất 1017 nên được cấp GCN. Đến năm 2017 bà H mới phát sinh tranh chấp với ông K một phần của thửa đất 1017.

Ngày 23/6/2017 UBND xã đã hòa giải và lập biên bản cắm mốc ranh giới đất tranh chấp, có chữ ký thống nhất của các bên, nhưng sau đó ông K không giao GCN QSD đất để điều chỉnh theo hiện trạng đã cắm mốc.

Ngày 09/01/2018 UBND xã X ký chứng thực hợp đồng tặng cho quyền sử dụng thửa đất giữa vợ chồng ông K, bà B với vợ chồng anh V, chị L là trái pháp luật, vì đất đang tranh chấp nhưng UBND xã không xem xét kỹ hợp đồng.

5. Theo các lời khai có tại hồ sơ và tại phiên tòa sơ thẩm ông K, bà B, anh V, chị L và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông K, bà B thống nhất trình bày:

Nguồn gốc đất tranh chấp do ông K khai hoang từ năm 1975, canh tác đến năm 2000 thì cho bà H mượn trồng hoa màu, đến năm 2017 gia đình ông K muốn lấy lại đất để canh tác thì xảy ra tranh chấp với bà H.

Hồ sơ địa chính đất đứng tên ông K, diện tích đất đã được cấp GCN QSD đất đứng tên ông K vào năm 2006 theo đúng quy định pháp luật, năm 2018 lập hợp đồng tặng cho vợ chồng anh V, chị L và đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Phú Yên cấp GCN QSD đất.

Ngày 23/6/2017 anh V ký biên bản cắm mốc ranh giới đất trên thực địa nhưng chưa hỏi ý kiến của ông K nên ông K không thực hiện theo biên bản thỏa thuận này.

Nay nếu bà H đồng ý thỏa thuận chia mỗi bên một phần đất, mỗi phần đều giáp đường đi thì anh V, chị L đồng ý thỏa thuận, nếu không thì đề nghị Tòa bác yêu cầu khởi kiện của bà H, vì bà H không có tài liệu, chứng cứ nào chứng minh quyền sử dụng đất.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 07/2020/HC-ST ngày 12/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên đã quyết định:

Căn cứ Điều 106, Điều 188 Luật đất đai năm 2013.

Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính. Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trịnh Thị Thúy H.

Tuyên bố hành vi chứng thực hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Lê H K, bà Lưu Thị B và anh Lê Hùng V, chị Đỗ Thị Hoa L đối với thửa đất số 1017, tờ bản đồ số 89, diện tích 2257m2, tại địa chỉ: Đất Nghỉ, xã X, huyện Đ, tỉnh Phú Yên ngày 09/01/2018 của Ủy ban nhân dân xã X, huyện Đông Xuân, tỉnh Phú Yên là trái pháp luật.

Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CI 135311 đứng tên anh Lê Hùng V, chị Đỗ Thị Hoa L do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Phú Yên cấp ngày 30/01/2018, thửa đất số 1017, tờ bản đồ số 89, diện tích 2257m2, tại địa chỉ: Thôn L, xã X, huyện Đ, tỉnh Phú Yên.

Buộc Ủy ban nhân dân huyện Đ thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Trịnh Thị Thúy H theo quy định pháp luật.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 25/6/2020 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê H K, bà Lưu Thị B, anh Lê Hùng V, chị Đỗ Thị Hoa L có đơn kháng cáo đề nghị sửa bản án sơ thẩm, bác yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.

Tại phiên toà phúc thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê H K, bà Lưu Thị B, anh Lê Hùng V, chị Đỗ Thị Hoa L (ông K, bà B, chị L do anh V đại diện theo uỷ quyền) giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Anh Lê Hùng V cho rằng toàn bộ diện tích đất 2.257m2 là của ông K, bà B tặng cho anh V, chị L nên yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của bà Trịnh Thị Thuý H.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông K, bà B yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm giao hồ sơ về Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng cho rằng: Về phần thủ tục tố tụng ở giai đoạn xét xử phúc thẩm đảm bảo đúng quy định pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông Lê H K, bà Lưu Thị B, anh Lê Hùng V, chị Đỗ Thị Hoa L và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà; Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về phần thủ tục tố tụng:

Tại phiên toà phúc thẩm ngày 26-11-2020, người khởi kiện là bà Trịnh Thị Thuý H có đơn xin xét xử vắng mặt, tại phiên toà hôm nay vắng mặt. Người người bị kiện UBND huyện Đ và UBND xã X, huyện Đ có đơn xin xét xử vắng mặt. Các đương sự có mặt và người bảo vệ quyền và lợi ích cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng như đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử xử vắng mặt các đương sự nói trên. Xét đây là phiên toà phúc thẩm mở lần thứ hai, các đương sự đã được triệu tập hợp lệ; việc vắng mặt của các đương sự nói trên không ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án nên căn cứ điểm b khoản 2; khoản 4 Điều 225 Luật tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vụ án.

[2]. Về phần nội dung:

Xét thửa đất 1017 đang tranh chấp thì thấy: Tại biên bản hoà giải cắm mốc đất nông nghiệp ngày 23-6-2017 của địa chính xã X và trưởng thôn thì giữa bà Trịnh Thị Thuý H với anh Lê Hùng V đã tự thoả thuận và tiến hành cắm mốc xác nhận ranh giới xong. Nếu bên nào sai cột mốc đã cắm bên đó chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật. Tại biên bản lấy lời khai đương sự ngày 21-6-2019 anh Lê Hùng V khai: Hiện tại trên đất tôi mới trồng sắn, bà H thì trồng keo, hiện ranh giới giữa hai bên là trụ bê tông và cây keo. Tại biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và biên bản đối thoại ngày 19-9-2019, anh Lê Hùng V và Luật sư thống nhất trình bày: Nếu bà H thống nhất thoả thuận thì các bên sẽ ngồi lại thoả thuận phân chia quyền sử dụng đất mỗi bên một phần để thuận tiện cho việc sử dụng. Tại biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và biên bản đối thoại ngày 06-3-2020 anh Lê Hùng V trình bày: Nếu bà H chịu hoà giải chia mỗi người một phần đất thì tôi thống nhất huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để cấp lại cho hai bên.

Tại biên bản đối thoại ngày 19-9-2019, đại diện UBND xã X trình bày: Năm 2006 ông K kê khai toàn bộ thửa đất, có cả đất bà H, sau đó cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông K toàn bộ thửa đất là sai, vì trong đó có một phần của bà H.

Từ những chứng cứ đã được phân tích cho thấy, bà Trịnh Thị Thuý H khởi kiện cho rằng diện tích đất mà ông Lê H K được cấp giấy chứng nhận, trong đó có phần đất của bà là có cơ sở. Hơn nữa, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông K là chưa đảm bảo đúng quy định của pháp luật như bản án sơ thẩm đã phân tích. Đồng thời, ông Lê H K, bà Lưu Thị B lập hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho anh Lê Hùng V, chị Đỗ Thị Hoa L; Anh V, chị L đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, bản án hành chính sơ thẩm của Toà án nhân dân tỉnh Phú Yên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trịnh Thị Thuý H tuyên bố hợp đồng tặng cho nói trên là trái pháp luật và huỷ giấy chứng nhận đã cấp cho anh V, chị L là có căn cứ. Do vậy, kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê H K, bà Lưu Thị B, anh Lê Hùng V, chị Đỗ Thị Hoa L cũng như quan điểm của luật sư bảo vệ quyền và lợi ích cho ông K, bà B là không có cơ sở nên không được Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận.

Bản án sơ thẩm còn tuyên buộc UBND huyện Đ thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Trịnh Thị Thuý H theo quy định của pháp luật. Việc tuyên án như thế này là không thể thi hành án được. Bởi lẽ, bà H được cấp toàn bộ diện tích thửa đất 1017 hay một phần. Nếu cấp toàn bộ thì không đúng theo yêu cầu của bà H, còn cấp một phần thì diện tích bao nhiêu, dựa trên cơ sở sơ đồ, bản vẽ nào. Lẽ ra, huỷ bản án sơ thẩm để giải quyết lại. Nhưng xét, trong quá trình giải quyết vụ án, bà H chỉ yêu cầu một phần diện tích đất của bà. Tại phiên toà sơ thẩm bà H đã khai: Tôi thống nhất diện tích đất của tôi như tại bản vẽ đã xác định. Tại bản vẽ hồ sơ kỹ thuật thửa đất lập ngày 25- 02-2020 (có bà H ký) thể hiện: Phần đất của bà H là 868,9m2. Do đó, Hội đồng xét xử Toà án cấp phúc thẩm thấy không cần thiết phải huỷ bản án sơ thẩm vì sẽ kéo dài vụ án mà sửa bản án sơ thẩm để đảm bảo việc thi hành bản án.

Do bản án sơ thẩm bị sửa nên người kháng cáo ông Lê H K, bà Lưu Thị B và anh Lê Hùng V, chị Đỗ Thị Hoa L không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí cho người kháng cáo.

Những phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên không xét.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 241 Luật tố tụng hành chính.

1. Sửa một phần bản án sơ thẩm.

Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính; Điều 106, Điều 188 Luật đất đai năm 2013; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trịnh Thị Thuý H.

Tuyên bố hành vi chứng thực hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Lê H K, bà Lưu Thị B và anh Lê Hùng V, chị Đỗ Thị Hoa L đối với thửa đất số 1017, tờ bản đồ số 89, diện tích 2.257m2, tại địa chỉ: Đất Nghỉ, xã X, huyện Đ, tỉnh Phú Yên ngày 09-01-2018 của UBND xã X, huyện Đ, tỉnh Phú Yên là trái pháp luật.

Huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CI 135311 đứng tên anh Lê Hùng V, chị Đỗ Thị Hoa L do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Phú Yên cấp ngày 30-01-2018, thửa đất số 1017, tờ bản đồ số 89, diện tích 2.257m2, tại địa chỉ: Thôn L, xã Xuân lãnh, huyện Đ, tỉnh Phú Yên.

Giao cho bà Trịnh Thị Thuý H 868,9m2 đất (Kèm theo bản vẽ, hồ sơ kỹ thuật thửa đất lập ngày 25-02-2020).

Bà Trịnh Thị Thuý H có trách nhiệm liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

2. Về án phí: Ông Lê H K, bà Lưu Thị B và anh Lê Hùng V, chị Đỗ Thị Hoa L không phải chịu án phí hành chính phúc thẩm. Hoàn trả lại cho ông Lê H K và bà Lưu Thị B 300.000 đồng, anh Lê Hùng V và chị Đỗ Thị Hoa L 300.000 đồng tại các biên lai thu tiền số 0000047 và số 0000048 cùng ngày 06-7-2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về phần chi phí xem xét, thẩm định, phần án phí không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

655
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 91/2021/HC-PT ngày 21/01/2021 về khởi kiện hành vi hành chính và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất  

Số hiệu:91/2021/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 21/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về