TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN PHONG, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 91/2019/HSST NGÀY 02/08/2019 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM
Ngày 02 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh mở phiên toà để xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 89/2019/HSST, ngày 01 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 83/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:
Nguyễn Thị N, sinh năm 1980. Nơi cư trú: Khu phố Đại Đình, phường Đồng Kỵ, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: Lớp 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Trí T - đã chết và bà Lê Thị M - đã chết; Chồng: Nguyễn Văn L, đã ly hôn; Bị cáo 03 con. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/3/2019, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Bắc Ninh. Có mặt tại phiên tòa.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1993.
Trú tại: Mẫn Xá, Văn Môn, Yên Phong, Bắc Ninh. Có mặt
2. Chị Tạ Thị V A, sinh năm 1981.
Trú tại: Phố Nghè, phường Đồng Kỵ, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Thị N là chủ quán Karaoke “Tình bạn” ở Yên Lãng, Yên Trung, Yên Phong, Bắc Ninh. Nguyễn Thị L là nhân viên của quán và Tạ Thị V A đều là gái bán dâm. N thỏa thuận với L và V A khi nào khách có nhu cầu mua dâm thì N sẽ thỏa thuận giá tiền mua dâm với khách là 500.000đ một lần mua dâm, sau đó N sẽ bảo L và V A dẫn khách đi nhà nghỉ để bán dâm. L và V A trực tiếp thu tiền của khách, sau mỗi lần bán Dâm, L phải trả cho N 250.000đ, V A phải trả cho N 100.000đ. Khoảng 12giờ ngày 28/3/2019, các đối tượng tự khai là Nguyễn Văn C, Nguyễn T A, Nguyễn Như D đi xe taxi của anh Nguyễn Như Ph đến quán Karaoke “Tình bạn” của N. C đặt vấn đề N gọi cho hai nhân viên để mua dâm, N đồng ý và thỏa thuận C trả cho N tiền công gọi nhân viên bán dâm là 1.000.000đ, ngoài ra C còn phải trả tiền cho nhân viên bán dâm là 500.000đ/người, C đồng ý. Sau đó, N gọi điện thoại cho L ở trên gác xuống. C đưa cho N 1.000.000đ tiền công gọi nhân viên và đưa cho L 1.000.000đ tiền mua dâm cho cả C và T A. Sau đó, N bảo L đưa C và T A đi nhà nghỉ để bán dâm. L cùng C và T A đi bộ sang nhà nghỉ Duyên H, đối diện quán Karaoke “Tình bạn”. Tại đây C bảo chị Nguyễn Thị Ch, là quản lý nhà nghỉ cho thuê hai phòng. Chị Ch đưa cho C chìa khóa phòng 102 và 103. C và L vào phòng 102, cùng nhau quan hệ tình dục, còn T A vào phòng 103 để chờ nhân viên. Khi L cùng C và T A sang nhà nghỉ Duyên H thì N gọi điện thoại bảo V A vòa phòng 103 nhà nghỉ Duyên H để bán dâm. Khi vào phòng V A hỏi T A tiền mua dâm thì T A nói đã đưa cho N, sau đó T A “bo” thêm cho V A 200.000đ rồi cùng V A quan hệ tình dục. Đến khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, khi C cùng L và T A cùng V A đang quan hệ tình dục tại phòng 102 và phòng 103 nhà nghỉ Duyên H thì bị Cơ quan Công an bắt quả tang.
Vật chứng thu giữ gồm:
- 02 bao cao su đã qua sử dụng thu trên giường phòng 102 và 103 nhà nghỉ Duyên H;
- 01 điện thoại di động OPPO màu đỏ và 200.000đ do V A giao nộp;
- 01 điện thoại di động Iphone 5 màu trắng và 1.000.000đ do L giao nộp;
Chiều ngày 28/3/2019, N đầu thú tại Cơ quan cảnh sát điều tra công an tỉnh Bắc N và giao nộp 01 điện thoại OPPO và số tiền 1.000.000đ.
Tại bản cáo trạng số 43/CT-VKS-P1 ngày 26/6/2019 của Viện kiểm sát nhân tỉnh Bắc N đã truy tố Nguyễn Thị N về tội "Môi giới mại dâm" theo điểm đ khoản 2 Điều 328 Bộ luật hình sự (BLHS).
Tại phiên toà hôm nay, Nguyễn Thị N thừa nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố hành vi phạm tội của bị cáo là đúng và khai nhận: Khoảng 12 giờ ngày 28/3/2019, có các đối tượng tự xưng là Nguyễn Văn C, Nguyễn T A và Nguyễn Như D đến quán Karaoke “Tình Bạn” do N làm chủ. Tại đây, C đặt vấn đề N gọi hai nhân viên để C và T A mua dâm. N và C thỏa thuận C phải trả N 1.000.000đ tiền công gọi nhân viên và trả 5.000.000đ/1 nhân viên bán dâm, C đồng ý. N đùng điện thoại gọi điện cho L đang ở trên gác xuống bán dâm cho khách. Khi L xuống C đưa cho L 1.000.000đ tiền mua dâm cho cả C và T A. Sau đó, N bảo L đưa C và T A đi nhà nghỉ để bán dâm. L cùng C và T A đi bộ sang nhà nghỉ Duyên H để bán dâm. T A đợi một lúc không thấy nhân viên đâu thì quay lại hỏi N, N dùng điện thoại gọi bảo V A đến phòng 103 nhà nghỉ Duyên H bán dâm cho khách. Sau đó, N được biết Cơ quan Công an bắt quả tang nên chiều ngày 28/3/2019, bị cáo đã đến cơ quan công an đầu thú.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Nguyễn Thị L có mặt tại phiên tòa đã trình bày: Nguyễn Thị L là nhân viên của quán Karaoke “Tình bạn” do Nguyễn Thị N làm chủ và Tạ Thị V A đều là gái bán dâm. N thỏa thuận với L và V A khi nào khách có nhu cầu mua dâm thì N sẽ thỏa thuận giá tiền mua dâm với khách là 500.000đ một lần mua dâm, sau đó N sẽ bảo L và V A dẫn khách đi nhà nghỉ để bán dâm. L và V A trực tiếp thu tiền của khách, sau mỗi lần bán Dâm, L phải trả cho N 250.000đ, V A phải trả cho N 100.000đ. Khoảng 12 giờ ngày 28/3/2019, có 3 khách đi taxi đến quán nhà N, nhưng chỉ có hai khách đặt vấn đề mua dâm là C và T A. Sau khi N thỏa thuận xong giá với C thì N gọi L từ trên gác xuống để bán dâm cho khách. Tại quán karaoke của N, C đưa cho L 1.000.000đ tiền mua dâm cho cả C và T A. Sau đó, L cùng C và T A sang nhà nghỉ Duyên H để bán dâm. L và C lên phòng 102, còn V A và T A lên phòng 103 nhà nghỉ Duyên H để bán dâm. Tại phòng 103, T A có “bo” thêm cho V A 200.000đ. Khi L và V A đang bán dâm cho khách thì bị lực lượng Công an bắt quả tang. Ngoài hành vi môi giới cho L đi bán dâm ngày 28/3/2019, N còn môi giới cho L bán dâm một số lần khác nhưng L không nhớ thời gian, địa điểm cụ thể, không biết người mua dâm là ai và cũng không nhớ được N chia bao nhiêu tiền bán dâm. Chị L đề nghị được trả lại tài sản là 01 điện thoại di động Iphone 5 màu trắng; Tạ Thị V A vắng mặt tại phiên tòa, nhưng lời khai tại cơ quan điều tra được thể hiện như L khai nêu trên.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong thực hành quyền công tố tại phiên toà đã khẳng định vào khoảng 12 giờ ngày 28/3/2019, tại quán Karaoke “Tình bạn” ở Yên Lãng, Yên Trung, Yên Phong, Bắc Ninh, Nguyễn Thị N đã môi giới cho hai đối tượng tự khai là Nguyễn Văn C và Nguyễn T A mua dâm với Nguyễn Thị L và Tạ Thị V A. Qua việc môi giới mua dâm, N được C trả tiền công là 1.000.000đ nên đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố Nguyễn Thị N về tội “Môi giới mại dâm” theo điểm đ khoản 2 Điều 328 Bộ luật hình sự và đề nghị HĐXX áp dụng điểm đ khoản 2 và khoản 4 Điều 328; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 BLHS; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự tuyên phạt Nguyễn Thị N từ 4 năm đến 4 năm 6 tháng tù, đề nghị phạt bổ sung bị cáo từ 15 đến 20 triệu đồng.
Về vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu huỷ số 02 bao cao su đã qua sử dụng; Tịch thu xung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động OPPO màu đỏ thu của V A; 01 điện thoại di động Iphone 5 màu trắng thu của L; 01 điện thoại OPPO thu của N và số tiền 2.200.000đ (trong đó thu của N 1.000.000đ, thu của L 1.000.000đ và thu của V A 200.000đ).
Bị cáo nhận tội và không tham gia tranh luận với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra taị phiên toà, phù hợp với kết quả tranh luận tại phiên toà thể hiện: Ngày 28/3/2019 Nguyễn Thị N đã có hành vi làm trung gian dẫn dắt hai gái bán dâm cho hai khách mua dâm để thu tiền lời. Do vậy, đại diện VKSND huyện Yên Phong đề nghị HĐXX tuyên bố Nguyễn Thị N phạm tội “Môi giới mại dâm” là có căn cứ, đúng pháp luật. Bị cáo thực hiện hành vi dẫn dắt đối với hai người bán dâm nên hành vi của bị cáo bị truy cứu theo điểm đ khoản 2 Điều 328 BLHS.
Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi của bị cáo không những trực tiếp xâm hại đến trật tự công cộng mà còn xâm phạm đạo đức xã hội, sức khoẻ con người và là nguyên nhân làm lây truyền các loại virus gây bệnh nguy hiểm, đặc biệt là HIV/AIDS. Do vậy hành vi của bị cáo cần được xử lý nghiêm để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ: Từ trước đến nay bị cáo chưa có sai phạm bị xử lý, sau khi phạm tội đã đầu thú; tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình có công với cách mạng, đây là tình tiết giảm nhẹ được qui định tại điểm s khoản 1 điều 51và khoản 2 điều 51 BLHS nên cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi quyết định hình phạt.
Căn cứ tính chất vụ án, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ xét thấy cần buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian nhất định tương xứng với hành vi bị cáo đã thực hiện nhằm cải tạo, giáo dục về ý thức tuân thủ pháp luật.
Bị cáo thực hiện hành vi vi phạm tội có thu lợi nên cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Đối với Vũ Văn H là chủ nhà nghỉ Duyên H, ngày 28/3/2019, anh H không có mặt tại nhà nghỉ, không biết C, T A, L và V A thuê phòng để thực hiện hành vi mua bán dâm nên Công an tỉnh Bắc N đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với anh H về lỗi “Thiếu tinh thần trách nhiệm để xảy ra hoạt động mua bán dâm ở cơ sở kinh doanh do mình làm chủ” bằng hình tức phạt tiền là phù hợp.
Đối với Nguyễn Thị Ch, là quản lý nhà nghỉ Duyên H, chị Ch không biết việc C, T A, L và V A thuê phòng để thực hiện hành vi mua, bán dâm nên không có căn cứ để xử lý.
Đối với Nguyễn Thị L và Tạ Thị V A có hành vi bán dâm, Công an tỉnh Bắc Ninh ra Quyết định xử lý hành chính đối với L và V A là phù hợp.
Đối với hai đối tượng mua dâm là Nguyễn Văn C, Nguyễn T A và đối tượng tự khai là Nguyễn Như D đi cùng C và T A, sau khi làm việc, lợi dụng sơ hở các đối tượng trên đã bỏ trốn. Cơ quan điều tra đã xác minh tại địa Ph các đối tượng đã khai nhưng không có người như trên. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là phù hợp.
Đối với anh Nguyễn Như D, là lái xe taxi chở C, T A, D đến quán của N nhưng không biết C, T A có mục đích mua dâm nên không có căn cứ xử lý.
Đối với hành vi trước ngày 28/3/2019 N đã môi giới cho L đi bán dâm cho khách, nhưng L không nhớ thời gian, địa điểm cụ thể, không biết người mua dâm là ai và cũng không nhớ được N chia cho bao nhiêu tiền bán dâm nên không có căn cứ xử lý.
* Về vật chứng: 02 bao cao su đã qua sử dụng. Đây là những công cụ để mua bán dâm, giá trị sử dụng không còn nên cần tịch thu tiêu huỷ; Đối với 1 điện thoại di động OPPO màu đỏ do V A giao nộp; 01 điện thoại di động Iphone 5 màu trắng do L giao nộp; 01 điện thoại OPPO do N giao nộp. N, L, V A đã dùng những chiếc điện thoại này để liên lạc với nhau khi có khách mua dâm, là vật chứng liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội nên cần tịch thu xung công quỹ nhà nước; Đối với số tiền 2.200.000đ (trong đó 1.000.000đ do N giao nộp, 1.000.000đ do L giao nộp và 200.000đ do V A giao nộp) là tiền thu lời bất chính nên cần tịch thu xung công quỹ nhà nước.
Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Nguyễn Thị N phạm tội "Môi giới mại dâm”.
Áp dụng điểm đ khoản 2 và khoản 4 Điều 328; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 BLHS; Điều 106; Điều 136; Điều 329 BLTTHS; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Xử phạt: Nguyễn Thị N 4 (Bốn) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 28/3/2019. Và phạt bổ sung Nguyễn Thị N 15.000.000đ (Mười năm triệu đồng). Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án (02/8/2019) theo Quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử.
* Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 02 bao cao su đã qua sử dụng. Tịch thu xung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động OPPO màu đỏ; 01 điện thoại di động Iphone 5 màu trắng; 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO và số tiền 2.200.000đồng.
* Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt kết quả bản án.
Bản án 91/2019/HSST ngày 02/08/2019 về tội môi giới mại dâm
Số hiệu: | 91/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Phong - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/08/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về